Việt Nam tổ quốc tôi
Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011
Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy ?
"Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh / Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành / Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy? / Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH". Đây là bài tứ tuyệt được thêu trên bức trướng do 5 nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh.. Làm sao mà các nhà cách mạng Nga lại làm được thơ tứ tuyệt, hay là họ nhờ ai đó làm giúp theo ý họ? Các chữ viết hoa trong bài tứ tuyệt được thêu chữ hoa, nghĩa là có dụng ý. Ba chữ là lấy từ trong “Hồ Chí Minh”. Còn chữ “Thơm” có phải đó cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết? Câu hỏi trên của anh Phan Chí Thắng , mỗi năm tôi lại đưa lên mạng ít nhất một lần để thu thập thêm tư liệu. Nhiều vấn đề lịch sử sẽ cần phải có thêm thông tin và thời gian. Dưới đây là hai bài viết của Lê Mai về Chủ tịch Nước Hồ Chí Minh và đường dẫn tới tác phẩm Một Cơn Gió Bụi - Lệ Thần Trần Trọng Kim làm sáng thêm một góc khuất của trí tuệ bậc Thầy. Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy ?
CHỦ TỊCH NƯỚC HỒ CHÍ MINH
Lê Mai
QUỐC HỘI nước VNDCCH, vào ngày 9.11.1946, đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên mà sự tiến bộ, mẫu mực, dân chủ của nó cho đến nay – không những làm chúng ta mà còn làm cả thế giới thán phục. Trong bản Hiến pháp dân chủ ấy, ngoài việc thiết kế một thiết chế chính trị mẫu mực, đã quy định quyền hạn của Chủ tịch nước rất rõ ràng, đó là người thay mặt cho nước, giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân, ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, ban bố các đạo luật, đặc xá, ký hiệp ước với các nước, tuyên chiến hay đình chiến…
Hồ Chí Minh là Chủ tịch đầu tiên của nước VNDCCH.
Dĩ nhiên, dấu ấn của Hồ Chí Minh hết sức đậm nét trong bản Hiến pháp đầu tiên. Sự thông minh xuất chúng, hiểu nhiều, biết rộng của Hồ Chí Minh đã làm Võ Nguyên Giáp – một người tài ba, một cộng sự rất gần gũi Hồ Chí Minh kinh ngạc. Ông kể, gần như làm bất cứ việc gì, ông đều thấy Hồ Chí Minh đã tiên liệu, suy nghĩ vấn đề đó từ rất lâu rồi. Bản Tuyên ngôn độc lập, bản Hiến pháp đầu tiên của nước VNDCCH chỉ là vài dẫn chứng sinh động.
Đối với những tình huống đột xuất thì sao? Những ứng phó của Chủ tịch nước Cộng hòa non trẻ, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong, giặc ngoài đầy rẫy càng làm chúng ta khâm phục.
Ngay sau cái Tết Bính Tuất năm 1946 – Tết độc lập đầu tiên sau tám mươi năm trời nô lệ, Hồ Chí Minh đã có một cuộc nói chuyện dài với tướng Raun Xalăng. Xalăng – một sỹ quan Pháp, người đã từng ăn cơm lam chấm mắm ngóe miền thượng nguồn, ăn mắm tôm vắt chanh ở miền xuôi của VN. Tướng Xalăng đang rất hung hăng, điều này dễ hiểu, vì bấy giờ, Pháp ỷ vào sức mạnh nên coi thường Chính phủ Hồ Chí Minh. Nhưng, ông ta có vẻ bối rối khi hiện ra trước mắt mình là một nhà hiền triết phương Đông với phong thái ung dung tự tại tỏa ra từ đôi mắt sáng, chòm râu thưa, mái tóc pha sương, nước da dãi dầu mưa nắng, một cốt cách thanh cao khắc khổ ẩn tàng sức mạnh siêu quần được dấu kín trong bộ quần áo kaki cổ đứng không cài cúc.
- Mời tướng quân xơi nước.
Tướng Xalăng nâng chén nước lên theo lời mời của Hồ Chí Minh và nói:
- Thưa ngài Hồ Chí Minh…
Lập tức, Hồ Chí Minh ngắt lời ông ta:
- Tôi đã mời “tướng quân” xơi nước chứ tôi không mời “ngài” Raun Xalăng…
Raun Xalăng mất chủ động, lúng túng xin lỗi, mặc dù dụng ý của ông ta rất rõ ràng: không công nhận chức Chủ tịch của Hồ Chí Minh, cũng tức là không công nhận nước VNDCCH.
Sau những lời xã giao, thăm hỏi, trao đổi về tình hình chung, bỗng Raun Xalăng chuyển câu chuyện. Ông ta nói:
- Chủ tịch thử nghĩ xem, nên để chúng tôi khôi phục trật tự ở nước này, vì chúng tôi đủ lực lượng và rất nhiều phương tiện. Theo ý tôi, nếu được như vậy đất nước này sẽ biết ơn Chủ tịch, vì Chủ tịch là người đứng đầu Chính phủ có uy tín tuyệt đối với nhân dân. Nếu Chủ tịch để chúng tôi đưa quân vào đây không gặp trở ngại nào thì đó là sự chứng minh trước thế giới Chủ tịch biết kiềm chế quân đội của mình và điều đó thể hiện uy quyền của Chủ tịch là vô song.
Phải công nhận lời nói của Xalăng rất khôn khéo mà hiểm độc. Hồ Chí Minh bình thản chế thêm nước trà vào chén mời Xalăng:
- Tướng quân uống nước đi. Hút tiếp một hơi thuốc lá thơm, giọng nói trầm hùng của Hồ Chí Minh phắt căng lên:
- Tôi không thể làm như lời tướng quân, nếu làm như vậy, tôi sẽ là kẻ phản quốc. Tướng quân nên nhớ rằng, chúng tôi yêu nước Pháp, nhưng không muốn làm nô lệ. Nước Pháp có binh hùng, có nhiều tướng giỏi, nhiều vũ khí tối tân. Một Pháp có thể giết 10 VN, 10 VN có thể chỉ diệt được một Pháp nhưng toàn dân VN đều một lòng kháng chiến chống Pháp.
- Chúng tôi rất mạnh. Cuộc đổ bộ của chúng tôi đã sẵn sàng. Vì sao Chủ tịch không chịu thừa nhận điều hiển nhiên ấy?
Giọng Hồ Chí Minh như có lửa:
- Nếu quân Pháp lại đổ bộ đến đây, chúng tôi không chặn đứng được ngay, nhưng sẽ đổ máu, những người dân Pháp sẽ bị chết. Đó là điều bất hạnh cho cả hai bên. Chúng tôi không bao giờ mong điều đó xảy ra. Nhưng chúng tôi không chịu làm nô lệ một lần nữa.
Câu chuyện trên về Hồ Chí Minh gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ, nhất là trong bối cảnh hiện nay, cuộc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông đang diễn ra hết sức phức tạp, vấn đề xử lý mối quan hệ Việt – Trung, các cuộc biểu tình của người dân yêu nước phản đối sự gây hấn của TQ, sự ngăn cấm của nhà cầm quyền…Hơn ai hết, tấm gương sáng của Chủ tịch nước Hồ Chí Minh, người lãnh đạo một dân tộc bất khuất đang nhắc nhở chúng ta.
Rồi sau đó, Hồ Chí Minh là thượng khách của nước Pháp nhân Hội nghị Phôngtennơblô. Trên đường bay sang Pari, Hồ Chí Minh nhận được tin ở VN, cao ủy Xêđin và đô đốc Dacgiăngliơ đã nặn ra cái gọi là “Chính phủ Nam Kỳ tự trị”. Hồ Chí Minh nói với Raun Xalăng – người tháp tùng trong cuộc hành trình:
- Tướng quân này, các ông đừng có ảo tưởng biến Nam Bộ của chúng tôi thành một thứ Anđát – Loren mới, nếu các ông cứ dẫm chân lên dấu bàn chân cũ thì sẽ dẫn đến cuộc chiến tranh một trăm năm. Thôi, ông hãy đưa tôi trở về Hà Nội.
Thật là kiên quyết, thật là dũng cảm, không hề có một chút run sợ trước kẻ thù. Sau khi Xa lăng đề nghị cứ tiếp tục sang Pari, nơi đó Chủ tịch sẽ thanh toán các vấn đề, Hồ Chí Minh tiếp tục:
- Tôi tin tướng quân. Ở Pháp, tôi có nhiều bạn tốt dẫu rằng thế giới đang là một biển thù.
“Thế giới đang là một biển thù” nhưng vị Chủ tịch nước với lòng yêu nước và thiên tài của mình đã dẫn dắt dân tộc VN vượt qua. Lịch sử đã chứng minh hùng hồn. Thế thì, ngày nay, thế giới đâu còn là một biển thù nữa, tại sao VN không thể đứng thẳng, ngẩng cao đầu một cách hiên ngang?
Đến đây, như thường lệ, chúng ta nhìn sang bên kia biên giới, một ông Chủ tịch nước khác – Lưu Thiếu Kỳ, Chủ tịch nước CHNDTH.
Lưu Thiếu Kỳ, người đầu tiên đề xuất cụm từ “tư tưởng Mao Trạch Đông”, đưa vào điều lệ Đảng, uy tín ngày một lên cao, nhất là trong bối cảnh Mao liên tục “phát minh” ra các sáng kiến “trăm hoa đua nở”, “đại nhảy vọt”, “công xã nhân dân” làm chết đói hàng chục triệu người dân. Mao sợ mất đại quyền. Mao căm thù ông nhiều chuyện, song, “quân tử mười năm trả thù cũng chưa muộn”, Mao ghim nó trong lòng. Cơ hội đến, Mao gán cho Lưu Thiếu Kỳ là “phản bội, nội gian, công tặc”, là đầu sỏ phái đương quyền đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đến nỗi, Lưu Thiếu Kỳ xin được từ chức Chủ tịch nước, về quê làm ruộng cũng không được Mao đồng ý. Và ông đã chết sau bao nhiều cực khổ vì bị đày đọa, với cái tên Lưu Vệ Hoàng, còn mục nghề nghiệp ghi là “vô nghề nghiệp”.
TQ là như thế đó, thế mà người ta không hiểu lịch sử ư?
Vấn đề Chủ tịch nước TQ chưa dừng lại ở đó. Tháng 3.1970, Mao kiến nghị cải biến thể chế quốc gia, không lập chức Chủ tịch nước nữa.
Lâm Bưu, người kế vị Mao đã được ghi vào Điều lệ Đảng – một việc chưa từng có, vừa mừng vừa lo. Mừng vì Mao tỏ thái độ sẽ không làm Chủ tịch nước, đương nhiên phải là ông ta. Lo vì Mao không chủ trương lập chức Chủ tịch nước, vậy đừng hòng ai mơ tưởng chức vụ ấy. Lâm Bưu hai lần điện thoại cho Mao “kiến nghị cần để Mao Trạch Đông giữ chức vụ Chủ tịch nước”, đều bị Mao khước từ.
Lâm Bưu lại lao tâm khổ tứ, đề xuất kiến nghị chính thức với Bộ Chính trị. Ông ta cho rằng, nếu kiến nghị chính thức với Bộ Chính trị, Mao không thể dễ dàng bỏ qua.
Nửa đêm, Lâm Bưu đọc kiến nghị cho thư ký ghi chép. Thứ nhất, vấn đề Chủ tịch nước, đồng chí Lâm Bưu vẫn kiến nghị để Chủ tịch Mao Trạch Đông kiêm nhiệm. Như vậy, thích hợp với trạng thái tâm lý của nhân dân, trong nước và nước ngoài, trong đảng và ngoài đảng. Thứ hai, vấn đề Phó Chủ tịch nước, đồng chí Lâm Bưu cho rằng có thể có, có thể không, có thể nhiều, có thể ít, không mấy hệ trọng. Thứ ba, đồng chí Lâm Bưu cho rằng, bản thân mình không nên đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch.
Bản kiến nghị của Lâm Bưu cực kỳ khéo léo. Nói thẳng ra, mình chỉ có thể làm Chủ tịch nước. Nhưng than ôi, chỉ một thời gian ngắn sau đó, kết cục bi thảm đã đến với ông ta khi chiếc máy bay đưa ông ta chạy trốn bị rơi trên đất Mông Cổ, không một ai sống sót. Câu chuyện về Chủ tịch nước chưa thể dừng lại.
Trở lại với nước VNDCCH sau ngày lập nước đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, nguy hiểm. Hơn hai triệu người dân vừa chết đói. Ngân khố quốc gia trống rỗng. Thù trong, giặc ngoài. Mười tám vạn quân Tưởng tràn vào miền Bắc với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, song mục đích của chúng hơn thế, “diệt Cộng, cầm Hồ”. Người Pháp không cam chịu thất bại, âm mưu quay trở lại nắm chính quyền. Cùng một lúc, VN đang phải đối mặt với nhiều kẻ thù. Cần phải có đối sách đúng đắn, sáng suốt mới đưa đất nước thoát ra khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Và chính thiên tài của vị Chủ tịch nước Hồ Chí Minh, trong giai đoạn cực kỳ hiểm nghèo ấy, đã thể hiện một cách rực rỡ nhất. “Nếu không có Hồ Chí Minh thì khó lường hết cái gì có thể xẩy ra” - Phạm Văn Đồng.
Quân Tưởng hết sức ngang ngược, chẳng khác gì ông cha chúng nó và có lẽ hậu duệ của chúng cũng vậy? Chúng đòi hỏi đủ điều. Chúng chiếm những ngôi nhà đẹp. Chúng khiêu khích ta nhằm tìm một cái cớ để nổ súng – y như trên biển Đông hiện nay. Chúng bắt ta cung cấp gạo cho chúng, trong khi đồng bào ta không có cơm ăn.
Có hôm, Hồ Chí Minh và Huỳnh Thúc Kháng lên gặp Lư Hán ở Chủ tịch phủ – bấy giờ đã bị chúng chiếm đóng. Lư Hán hoạnh họe hơn một tiếng đồng hồ, lên mặt hạch sách, nói các anh làm ăn không ra sao cả. Hồ Chí Minh và Huỳnh Thúc Kháng nín lặng, không nói gì, nhưng trong lòng rất bực tức. Ra về, cụ Huỳnh nói: “Nó khinh mình quá lắm. Không chịu nổi nữa, cứ đánh đi, rồi muốn ra sao thì ra”!
Huỳnh Thúc Kháng chính là quyền Chủ tịch nước khi Hồ Chí Minh đi Pháp bốn tháng, giữa lúc thế nước cực kỳ rối ren. Cụ Huỳnh là một nhân sỹ nổi tiếng, khảng khái, bất khuất nhưng không ưa cộng sản. Hồ Chí Minh đã nhiều lần mời cụ ra Hà Nội nhận chức Bộ trưởng nhưng cụ chưa chịu.
Hồ Chí Minh nghe người bí thư đọc bức điện trả lời của Huỳnh Thúc Kháng :
- “Thưa Chủ tịch, thời tiết xấu, tôi chưa đi được. Tôi không thể nhận chức Bộ trưởng. Nhưng trước sau cũng sẽ ra gặp Cụ”.
Hồ Chí Minh trầm ngâm hút thuốc:
- Chẳng lẽ cụ Huỳnh từ chối không chịu ra phụng sự quốc dân trong cơn nguy nan này?
- Cụ Huỳnh đã khước từ Bảo Đại mời ra lập chính phủ thay cho Trần Trọng Kim. Tôi tin thế nào cụ Huỳnh cũng ra yết kiến Bác. Mà cụ đã gặp Bác thì cụ sẽ chấp nhận những việc Bác tin cậy.
- “Chúng tôi khẩn khoản mời cụ ra Hà Nội nhận chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ” – một bức điện tiếp theo của Hồ Chí Minh. Lại một bức điện khác của ông Võ Nguyên Giáp, người đã từng làm báo Tiếng dân với Huỳnh Thúc Kháng, rất được cụ yêu mến: “việc đại nghĩa, xin cụ đừng bỏ qua. Hồ Chủ tịch mong được gặp cụ…”.
Giữa lúc ấy, một lá thư từ Tổng hành dinh của tướng Lư Hán gửi cho Hồ Chí Minh: “Kính mời Hồ Chí Minh tiên sinh quá bộ tới Tổng hành dinh của tôi để giải quyết vụ nhân viên công an VN bắn chết một Pháp kiều”. Thư tránh gọi chức vụ Chủ tịch của Hồ Chí Minh và lời lẽ trong thư vừa có vẻ là một “chỉ lệnh”, lại tỏ ra rất “thiên triều”, báo trước những khó khăn, nguy hiểm của cuộc gặp.
Các ông Võ Nguyên Giáp, Hoàng Hữu Nam – Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Lê Giản – Tổng Giám đốc nha Công an, Vũ Đình Huỳnh – bí thư của Hồ Chí Minh lập tức họp trong sự căng thẳng và thống nhất đề nghị Hồ Chí Minh cử đặc phái viên của Chủ tịch nước đến gặp Lư Hán.
Hồ Chí Minh:
- Nếu tôi không đến gặp nó, nó sẽ cho là chúng ta đã sợ nó và nó sẽ được nước, làm điều càn bậy hơn.
- Nhưng Bác đến đó nguy hiểm vô cùng. Ông Giáp lo lắng.
- Có miếng võ hiểm cũng phải có miếng văn phá hiểm chứ. Hồ Chí Minh đáp.
Hồ Chí Minh dặn Vũ Đình Huỳnh, người bí thư tin yêu của mình trước khi lên xe:
- Cả ngày hôm nay, chú không rời khỏi phòng này một lúc nào cả.
Các ông Võ Nguyên Giáp, Hoàng Hữu Nam, Lê Giản đầy lo lắng đưa chân Hồ Chí Minh ra xe. Cánh cửa xe lại mở, Hồ Chí Minh quay vào phòng, gọi điện thoại sang văn phòng ông Patti (tác giả cuốn Tại sao Việtnam?). Hồ Chí Minh đã nhiều lần tiếp chuyện Patti, từng nhờ ông chuyển thư tới Tổng thống Mỹ Tơruman. Lúc ra xe, nét mặt Chủ tịch nước đầy tự tin, thanh thản. Cuộc điện thoại đó chính là “miếng văn phá hiểm” của Chủ tịch nước mà ngay cả ông Giáp lúc đó cũng không đoán ra nổi.
Xe vừa tới bậc thềm Dinh toàn quyền cũ, một tên sỹ quan liên lạc của Lư Hán tiếp ngay Hồ Chí Minh:
- Thưa Hồ Chí Minh tiên sinh, tướng quân Lư Hán của chúng tôi bận việc, mời tiên sinh gặp tướng quân Tiêu Văn.
Thật là một sự xúc phạm. Nhưng Hồ Chí Minh thoát mình ngay khỏi sự tiểu khí của bọn giặc cỏ:
- Nhờ ông chuyển lời chúc sức khỏe của tôi tới tướng quân tư lệnh.
Xe lại đưa Chủ tịch nước đến gặp Tiêu Văn. Tay này rất căm tức Hồ Chí Minh. Nhớ lại khi Hồ Chí Minh bị bắt ở TQ năm 1944, y thả Hồ Chí Minh ra và bầu vào Uỷ viên ban chấp hành Việt Nam cách mạng đồng minh hội do y chủ trương thành lập. Rồi y cho Hồ Chí Minh về VN để làm việc cho y. Song, khi về nước, tất nhiên Hồ Chí Minh không đời nào làm việc cho y mà lo bắt liên lạc với các đồng chí của mình, làm cuộc Tổng khởi nghĩa thành công. Bây giờ, sang VN, Tiêu Văn kể “Hồ Chí Minh thập đại tội”, đòi “triệt Hồ Chí Minh”.
Trời đã xế chiều mà vẫn không có một tin tức gì của Hồ Chí Minh. Các ông Võ Nguyên Giáp, Hoàng Hữu Nam, Lê Giản lo lắng, thấp thỏm. Đang lúc trù liệu căng thẳng thì ông Patti đến. Ông cho biết, ban sáng Chủ tịch nước gọi qua điện thoại mời ông chiều nay gặp nhau ở Bắc Bộ phủ. Ông Vũ Đình Huỳnh báo cho ông biết, sáng nay Chủ tịch nước đến Tổng hành dinh của Lư Hán theo lời mời của ông ta. Nhưng không rõ vì sao mà họ giữ Chủ tịch tại đó đến giờ này vẫn chưa về được. Vẻ bất bình hiện rõ trên mặt ông Patti. Ông nói, chúng tôi sẽ can thiệp ngay việc này.
Bây giờ, ông Huỳnh mới hiểu rõ, vì sao Hồ Chí Minh dặn ông cả ngày hôm nay không được rời phòng này một lúc nào cả. Và ông Võ Nguyên Giáp mỉm cười, “có miếng võ hiểm cũng phải có miếng văn phá hiểm chứ”.
Chủ tịch nước Hồ Chí Minh, con người giải quyết những tình huống phức tạp một cách thiên tài!
Cho đến khi giặc đã đến nhà, Hồ Chí Minh vẫn ra đi tìm bạn. Lửa chiến tranh ngày một lan rộng, do bọn hiếu chiến trong Chính phủ Pháp gây nên. Nhưng Hồ Chí Minh bằng mọi cách cứu vãn hòa bình, dù chỉ có rất ít cơ hội. Hòa bình là nguyện vọng lớn nhất của nhân dân ta, nhưng phải là hòa bình trong độc lập, tự do! Chính phủ Pháp đã chấp nhận một cuộc hòa đàm tại Phôngtennơblô gần thủ đô Pari và mời Hồ Chí Minh là thượng khách sang thăm nước Pháp. “Giặc đã đến nhà, ta vẫn ra đi tìm bạn”…
Trước khi sang Pháp, Hồ Chí Minh đã giới thiệu Huỳnh Thúc Kháng làm Quyền Chủ tịch nước. Tại sân bay Gia Lâm, Huỳnh Thúc Kháng xúc động hỏi:
- Cụ lên đường làm thượng khách nước Pháp mà quân xâm lược Pháp đang giày xéo nước nhà. Vắng Cụ khi có “vạn sự như lôi…” thì tôi hỏi ai?
- Ông Võ Nguyên Giáp đã từng cộng sự với Cụ từ thuở làm báo Tiếng Dân. Hồ Chí Minh chìa tay sang Võ Nguyên Giáp đang đứng bên cạnh.
- Xin Cụ cho anh em chúng tôi một lời khuyên…
- Thưa cụ, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Và cụ Huỳnh sững sờ nhìn theo chiếc máy bay đưa Hồ Chí Minh lên đường đang giữa bầu trời…
…Hội nghị Phôngtennơblô tan vỡ, với bản Tạm ước 14.9 trong tay, Hồ Chí Minh về nước trên chiếc Thông báo hạm Duymông Duyêcvin của Pháp. Thông báo hạm này đang chuẩn bị chở các thiết bị sang Đông Dương cho các lực lượng hải quân ở Viễn Đông thì nhận được một mệnh lệnh cấp tốc của Bộ chỉ huy Hải quân phải bốc dỡ tất cả các thứ hàng hóa dưới tàu lên bờ và đặt Thông báo hạm dưới sự điều động của Bộ Thuộc địa.
Chủ tịch nước dặn ông bí thư Vũ Đình Huỳnh:
- Chú nhờ bà con việt kiều may cho một lá cờ Tổ quốc cỡ lớn và chú mang theo trong hành lý cầm tay của chú. Ông Vũ Đình Huỳnh ngạc nhiên nhìn Hồ Chí Minh. Có lúc chúng ta sẽ dùng đến – Hồ Chí Minh mỉm cười ý nhị.
Tàu nhổ neo, lênh đênh trên biển. Hạm trưởng Ônây lúng túng khi vị Chủ tịch nước VN nêu vấn đề kéo quốc kỳ VN lên cột cờ hạm tàu cùng với quốc kỳ Pháp để hiểu rằng có vị nguyên thủ nước VN tự do đang hành trình trên tàu của Pháp. “Thưa Chủ tịch, tôi không được giao công việc này, để tôi điện về Pari xin chỉ thị” – Ônây đáp. Pari lập tức trả lời, đồng ý treo quốc kỳ VN, chỉ tiếc rằng, ở giữa biển lấy đâu ra lá cờ của VN? Ông Vũ Đình Huỳnh mở vali lấy ra lá cờ VN đưa cho Ônây trong sự ngạc nhiên tột độ của ông ta.
Và lá cờ VN ấy, khi nào sẽ tung bay trên Hoàng Sa của chúng ta?
Xem thêm:
Một Cơn Gió Bụi - Lệ Thần Trần Trọng Kim
Trở về trang chính
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Dạy và học BlogtiengViet
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC
Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2011
Đọc Lữ Phương viết về thầy Giàu
DANH NHÂN VIỆT. Giáo sư Trần Văn Giàu là nhân vật lịch sử Nam Bộ, cặp song sinh thế kỷ với đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thời đại Hồ Chí Mính. Hồi ký Trần Văn Giàu là tác phẩm sẽ còn được nhiều người đọc lại. Thời gian và sự khen chê không làm nhoà được dấu ấn của người đã góp phần làm nên lịch sử, nghiên cứu và giảng dạy lịch sử. Bài viết của Lữ Phương “Vài ghi nhận nhân đọc Hồi ký Trần Văn Giàu” có nhiều tư liệu quý đáng đọc và suy ngẫm. Đoạn kết còn phải bàn thêm “Riêng với tôi …cho đến hết”. Hình như vấn đề Nam Bộ và quy non sông về một mối, vấn đề lãnh tụ và ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, chiến lược và sách lược, tổng thể và vùng miền … chưa được luận bàn thấu tình đạt lý để hiểu được uẩn khúc lịch sử và đời người. Tôi nhớ bài thơ từ sách tuổi thơ “Học đi em. Học đi mà nhớ mãi. Quê hương ta một dãi. Từ mũi Cà Mau, đến địa đầu Móng Cái. Quê hương ta. Đồng ruộng phì nhiêu. Đủ bốn mùa hoa trái. Núi Trường Sơn vĩ đại. bờ biển rộng bao la. Có Việt Bắc, mồ ma giặc Pháp , nối liền Đồng Tháp Nam Bộ Thành Đồng…”. Lịch sử cần sự thật và suy ngẫm.Cuộc đời và nhân cách của bác Giáp, của thầy Giàu "dĩ công vi thượng", đức độ, tài năng là bài học lớn, rất lớn (Hoàng Kim)
VÀI GHI NHẬN NHÂN ĐỌC HỒI KÝ TRẦN VĂN GIÀU
Lữ Phương
Khi mất vào năm 100 tuổi (1911-2010), ông Trần Văn Giàu nổi danh như một nhà giáo dạy lịch sử. Nhưng với bản thân lịch sử thì ông cũng đã nổi tiếng từ lâu như một người đã tổ chức thành công cuộc khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Nam bộ, và cũng trong quá trình lãnh đạo cuộc khởi nghĩa này ông cũng nổi tiếng cả với những đồn đãi rất xấu cho uy tín chính trị của ông. Mục đích hồi ký[1] của ông là nhằm xoá đi cái màn sương mờ đục phủ lên đoạn đời ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa phức tạp đó – 1940 -1945 –, kể lại một cách chi tiết toàn bộ quá trình ông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng 8 nói trên ở Nam kỳ, góp tài liệu làm sáng tỏ một vấn đề lịch sử hiện đại của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng nhằm mục đích phơi bày sự thật về những kẻ mà ông cho rằng đã dùng những thủ đoạn tồi tệ để bôi nhọ ông, làm ông khổ sở, cho mãi đến cuối đời.
***
Chúng ta đều biết Trần Văn Giàu là một người cộng sản thuộc thế hệ 30 của thế kỷ trước. Một trong những nhà mácxit đầu tiên của Việt Nam thời bị thực dân đô hộ. Dự tính sang Pháp du học để trở thành một trí thức khoa bảng, ông lại bỏ ngang, gia nhập Đảng cộng sản Pháp và được Đảng này giới thiệu qua học trường Stalin ở Nga (cũng gọi là Đại học Phương Đông, từ tháng 5-1931 đến tháng 8-1932). Chủ nghĩa Marx mà ông tiếp thu vào thời kỳ này là hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đặc trưng Liên xô gọi là học thuyết “Mác-Lênin”, có nguồn từ Lenin nhưng dần dà suy thoái qua những luận giải của Stalin: hạ triết học Marx xuống thành một thứ cẩm nang thực dụng, một công cụ phục vụ chế độ toàn trị, coi Liên xô là trung tâm cách mạng vô sản toàn cầu, Đệ tam Quốc tế do Liên xô lãnh đạo là chỗ dựa vững chắc nhất của phong trào giải phóng dân tộc… Do nguồn gốc đào tạo này, lại hoạt động ở miền Nam, không giao lưu trực tiếp với Trung quốc, nên tư duy cách mạng vô sản của ông mang đậm sắc thái bôn-sê-vích kiểu Nga, không giống các đồng chí của ông ở miền Bắc, bị tác động khá mạnh lý luận cách mạng Trung quốc của Mao Trạch Đông. Một cách tự nhiên, theo phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ ông tin tưởng vô điều kiện rằng Liên xô là một mô hình mácxit đích thực duy nhất, hiển nhiên vì thế mà xem Đệ Nhị Quốc tế là bọn phản bội xấu xa còn bọn Đệ tứ là kẻ thù nội tại nguy hiểm không kém gì đế quốc tư bản.
Chính ông đã nhận rằng quan điểm cách mạng của ông bấy giờ có phần nghiêng về tả khuynh, ảnh hưởng mạnh mẽ từ Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản. Ông cũng nhận thêm rằng chính vì vậy mà suốt một thời gian dài ông không quan tâm đến Nguyễn Ái Quốc[2] – người mà chúng ta biết tư duy cách mạng đã bắt nguồn từ Đại hội 5 QTCS (1924) và Đại hội 7 QTCS (1935), không tham dự Đại hội 6 QTCS (1928)[3]– và thái độ đó của ông chỉ thay đổi khi ông gặp Nguyễn Ái Quốc khi đã về nước lãnh đạo và mang tên Hồ Chí Minh. Điều này không được ông Giàu trình bày trong hồi ký nhưng được phân giải khá thành thật ở một nơi khác.[4]
Môi trường hoạt động của Trần Văn Giàu khá đặc biệt. Hồi ký cho biết cuộc đời “cách mạng chuyên môn” của ông bắt đầu khi tốt nghiệp Đại học Stalin về nước (vào năm 1933): do xứ ủy cũ vừa bị thực dân phá tan, ông đã phải lo xây dựng ngay xứ ủy mới trong một hoàn cảnh mà ông diễn tả là “Trung ương không có” nên “phải vạch lấy con đường mà đi”. Công việc ấy chưa đến đâu thì ông bị bắt. Lần thứ nhất 1933, một năm thì được tha, nhưng lần thứ hai vào 1935 trầm trọng hơn. Bị kết án 5 năm (và 10 năm quản chế), ông không thể tham gia cuộc đấu tranh trên mặt trận báo chí và nghị trường diễn ra công khai ở các đô thị thời Mặt trận Bình dân từ 1936 dến 1939, nếu có hưởng được dư vang gì của phong trào này chỉ là sống được dễ dãi hơn khi ở tù. Đúng hạn 5 năm, về sum họp gia đình chưa đến chục ngày, khi Chiến tranh Thế giới II nổ ra, tất cả mọi hình thức hoạt động yêu nước không-cộng sản hoặc cộng sản (dù Đệ tam hay Đệ tứ) đều bị thực dân coi là bất hợp pháp, nên ông đã bị gom ngay vào “căng” Tà Lài (nơi giam giữ những phần tử bị nghi ngờ). Nhưng cũng từ khu rừng miền Đông Nam bộ này cuối năm 1941, ông đã tổ chức vượt ngục thành công để trở lại hoạt động. Và lần này, trong điều kiện khó khăn hơn trước gấp bội: cuộc khởi nghĩa Nam kỳ vào cuối năm 1940 do Trung ương lãnh đạo vừa thất bại tan tác.
Qua những tài liệu liên quan, chúng ta biết rằng do đánh giá tình hình không chính xác, kế hoạch bị lộ do có nội gián, đặc biệt là sự liên lạc giữa trung ương và địa phương khó khăn, lệnh đình chỉ cuộc khởi nghĩa đến không kịp, sự thất bại đó đã dẫn đến những hậu quả thảm hại chưa từng có cho Đảng cộng sản. Cuộc nổi dậy bị dìm trong bể máu của hàng nghìn người, những ai sống sót đều thu mình lại trong hoài nghi, bi quan, bất động; trong khi đó hầu hết các cán bộ lãnh đạo kỳ cựu quan trọng của Đảng đều bị bắt và bị giết (như Tạ Uyên, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai…), hoặc bị đi tù (Lê Hồng Phong [chết ở Côn Đảo năm 1942], Lê Duẩn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo…). Ông Giàu đã vượt “căng” Tà Lài trong tình thế đó và đã phải bắt đầu mọi việc như hồi 1933: làm lại cuộc cách mạng không có sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng. Do bị tách rời khỏi mọi hoạt động bên ngoài khá lâu, lại thừa kế một khoảng không về tổ chức, ông không có cách gì để biết được xứ ủy Nam kỳ cũ còn tồn tại hay không, cũng như không thể biết Trung ương có còn tồn tại hay không, do đó cũng không hề biết được ngay vào năm ông tổ chức vượt ngục, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã từ Trung quốc về nước tham dự hội nghị Trung ương lần thứ 8 ở Cao Bằng (tháng 5-1941) để thành lập Mặt trận Việt Minh – điều mà trong hồi ký của mình, ông Giàu cho biết đến mãi sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi cách mạng tháng 8 thành công rồi ông mới có được thông tin cùng một lượt với việc nối lại quan hệ với Trung ương.
Tự mình đảm nhận vai trò lãnh đạo trong hoàn cảnh đó, những gì ông đem ra vận dụng đều dựa vào những điều đã học được tại trường Stalin khoá 1931-1932. Lòng tin vào cách mạng của ông đã đi theo bước chân của Hồng quân Liên xô chống phát xít Đức trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Sách gối đầu giường của ông về hoạt động là những gì Lenin viết về cuộc khởi nghĩa Petrograd 1917, có lẽ vì vậy mà ông tỏ ra không mấy quan tâm đến những thứ lý luận đặc trưng Trung quốc do Mao Trạch Đông xướng xuất, như lấy nông thôn bao vây thành thị, chiến thuật biển người, chiến tranh du kích, văn nghệ công nông binh kiểu Diên an, rồi sau này là cải cách ruộng đất, chỉnh phong, chỉnh huấn v.v… Ông Giàu cho rằng phương pháp giành quyền lực cho Đảng cộng sản chỉ có thể thực hiện được bằng cách chuẩn bị thật đầy đủ những chỉ dẫn của Lenin, diễn ra dưới hình thức vũ trang của đông đảo quần chúng tại chỗ được chỉ đạo đồng loạt tiến lên chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của nhà nước thống trị, chứ chủ yếu không phải từ ngoài đánh vào, từ xa vận động tới. Ông cho rằng chính đây là định hướng cốt tử để tập trung kế hoạch xây dựng lực lượng thật vững mạnh ngay tại những xí nghiệp, những công sở, những cơ quan yết hầu chiến lược của các thành phố, thị xã… và trong khi nắm vững trọng tâm hoạt động, nếu có quan hệ gì đến nông thôn thì chỉ nên khai thác các vùng phụ cận thành thị để yểm trợ, phối hợp như cất giấu, chế tạo vũ khí, huấn luyện, hội họp, dự trữ, tiếp tế… và cuối cùng trong cao trào nổi dậy sẽ kéo lực lượng ven đô về cùng tác chiến chung với các trung tâm.
Ông Giàu cho biết, trong các văn bản của Đảng Việt Nam, ông chỉ dựa vào Nghị quyết lần thứ 6 của Trung ương họp tại Bà Điểm cuối năm 1939, do tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Nhưng hoàn cảnh tiếp cận văn bản đó thật li kỳ: hồi còn ở Tà Lài ông chỉ nghe qua do các bạn tù phổ biến, nay muốn nghiên cứu lại thì sau khi hỏi han không gặp được ai nhớ lại cho đầy đủ, cuối cùng mới may mắn tìm được một số đoạn chép tay rời rạc giấu trên mái lá của chuồng trâu trong nhà một đồng chí quen biết! Cố gắng tiếp thu cái thần của nó rồi đem so sánh với những điều mà ông biết trước đó, ông nhận thấy đã có sự di chuyển quan trọng về chỉ đạo chiến lược: trong hai nhiệm vụ phản đế và cải cách điền địa của cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo, thay vì nghiêng về hướng cải cách điền địa như nhiều năm trước đây, Nghị quyết 1939 đã đưa vấn đề chống đế quốc lên hàng đầu, coi đó như nhiệm vụ “chính cốt”. Điều này phù hợp hoàn toàn với tình thế bấy giờ ở Việt Nam, khi chiến tranh nổ ra đẩy các thế lực đế quốc vào chỗ suy yếu tạo điều kiện cho các thuộc địa vùng lên giành độc lập và gác lại các vấn đề khác của cách mạng vô sản. Nhận định này của Trần Văn Giàu, tuy không được chỉ đạo của Trung ương nhưng cũng phù hợp với Nghị quyết của Trung ương tháng 5-1941, coi thời cơ giành độc lập đã đến, chủ yếu khai thác triệt để sự xâu xé lẫn nhau giữa Pháp và Nhật, biểu hiện rất rõ qua chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và đã lãnh đạo thành công khởi nghĩa ở Bắc và Trung.
Xứ uỷ Nam kỳ – do ông vận động thành lập vào tháng 10 năm 1943 và được bầu làm bí thư –, vì cách bức về liên lạc, không nhận được bất cứ chỉ thị nào của Trung ương, nhưng cũng đã nhìn thấy cơ hội đó, để có những hành động thích hợp và đã thành công. Điều đó đã biểu hiện rõ ràng qua nhận thức của ông Giàu trong việc xác định “đối tượng trực tiếp” mà khởi nghĩa cách mạng cần đánh đổ ở Nam kỳ: đó sẽ không phải là thực dân Pháp (vì đã bị Nhật tước khí giới) cũng không phải là phát xít Nhật (vì Nhật đã đầu hàng) mà là “chính quyền bù nhìn” do Nhật dựng nên, mà chính quyền này lại “đang rệu rã và không có ý chí đề kháng đáng kể”, cho nên nếu trung lập hóa được quân Nhật thì việc đánh đổ chính quyền ấy “sẽ thành công nhanh chóng và không gặp khó khăn gì lắm”. Phân tích ấy của ông Giàu xác nhận rằng tương quan lực lượng đã thay đổi hoàn toàn có lợi cho cách mạng. Và điều đó hàm nghĩa rằng các đảng phái, tôn giáo phi cộng sản, dù có quần chúng và vũ khí, xưa nay thường dựa vào phát xít và thực dân để hoạt động nay hoàn toàn thất thế. Vấn đề chỉ còn là thời cơ và thời cơ cũng đã đến như một món quà giúp những chuyên viên nổi dậy mở màn và chấm dứt cuộc giành chính quyền nhanh chóng và không mấy khó khăn: nghìn năm có một, một khoảng trống về quyền lực nhà nước đã xuất hiện, khi cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 của Nhật đối với Pháp diễn ra rồi sau đó không lâu Nhật phải đầu hàng vô điều kiện (14-8-1945) vì hai trái bom nguyên tử của Mỹ.
***
Ông Giàu cho rằng những cố gắng của ông dù sao cũng chỉ là những mò mẫm “bất đắc dĩ”, không tránh khỏi sai biệt và cả sai lầm khi so với đường lối của Trung ương. Đọc hồi ký ông viết, không thấy ông nói đến những sai lầm, cũng không thấy nhắc đến những điều ông bị Trung ương phê phán một cách chính thức, nhưng chỉ thấy ông nói đến những sai biệt và cho rằng những sai biệt ấy là sự vận dụng những nguyên lý vào những điều kiện khác nhau, vấn đề là xét xem sự vận dụng ấy có mang đến thành công hay không. Biện luận này của ông đã được thực tế xác nhận qua những chuẩn bị chu đáo của xứ uỷ Nam kỳ về mặt chủ quan để đón nhận những thuận lợi do thời cơ mang đến.
Tuy vậy, khi đem đường lối mà ông Giàu áp dụng ở miền Nam, so với đường lối Trung ương để xét vấn đề một cách tổng thể, chúng ta thấy nhiều so le quan trọng, quan trọng nhất là thiếu một nội dung cụ thể để hình thành mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc trong tình hình đặc biệt của Việt Nam vào lúc bấy giờ. Mọi người đều biết, trong khi Trung ương, chủ trương cố ý che giấu bớt nguồn gốc cộng sản của chính quyền mới thành lập (sau đó không lâu đã phải công khai tuyên bố giải tán Đảng để đưa vào bí mật) thì trong cuộc diễu hành 2 tháng 9 ở Sài gòn, như ông Giàu đã mô tả trong hồi ký, cờ búa liềm lại quá nặng vì quá lớn khi được dương lên! Mọi người cũng đều biết, trong tình thế bị cách biệt hoàn toàn với với “phe dân chủ ” (cách mạng Trung quốc chưa thắng lợi), lại bị đủ loại thế lực chống cộng sản (trong và ngoài) bao vây tứ phía và thực dân Pháp thì chuẩn bị trở lại phục hồi sự thống trị bằng vũ lực, Trung ương đã chủ trương hoà hoãn, thương lượng bằng nhiều cách để chuẩn bị đối phó thì trong Nam ông Giàu, mặc dầu hiểu rõ sự cần thiết của Mặt trận, nhưng vẫn cứ bám chặt vào những chuẩn mục cách mạng vô sản mà Lenin đã áp dụng ở Petrograd, qua đó phân tuyến ta địch để xử lý các vấn đề nẩy sinh, nhất là trong nội bộ dân tộc.
Trước những khác biệt về chủ trương chiến lược đó, thái độ của ông Giàu với một số cán bộ lãnh đạo Trung ương, đặc biệt với Hoàng Quốc Việt là người đại diện của Trung ương được cử vào Nam sau ngày 2-9-1945, có nhiều điều phức tạp hơn những gì ông đã viết. Không phải ông không đúng khi cùng với Phạm Ngọc Thạch phản đối lệnh của Hoàng Quốc Việt giải tán Thanh niên Tiền phong vì tổ chức này thực chất do xứ uỷ lập ra nhờ khôn khéo tranh thủ được sự đồng ý của Nhật, dùng làm bình phong tập hợp một cách rộng rãi công khai và các tầng lớp quần chúng chuẩn bị cho khởi nghĩa và thực tế đã đóng vai trò cực kỳ lợi hại trong khởi nghĩa. Sự phẫn nộ của ông Giàu cũng chính đáng khi thấy Hoàng Quốc Việt đứng ra xin tha cho Trần Văn Vi vì ông này trong khi được xem là nhân vật số 1 của xứ uỷ Giải phóng lại chính là người, theo sự trình bày của ông Giàu, “đã dẫn đầu mấy ngàn tín đồ Hoà Hảo có vũ trang kéo vào Cần Thơ, tháng 9 năm 1945, đòi nắm chính quyền trên 7 tỉnh miền Tây Nam Bộ”. Chúng ta không có điều kiện để biết lý do hành động thật sự của Hoàng Quốc Việt, nhưng giả định sự trình bày của ông Giàu là đúng trong những trường hợp nói trên, thì một cách khách quan cũng không vì thế mà có thể cho rằng trong rất nhiều trường hợp thái độ của ông Giàu là đúng hoàn toàn.
Hãy thử so sánh chủ trương của xứ uỷ Nam kỳ qua ứng xử của Trần Văn Giàu với ứng xử của Trung ương qua hành động của Hồ Chí Minh – thí dụ đối với vua Bảo Đại, với phe Tàu Tưởng (có cả những lực lượng bản xứ tùng theo để chia quyền với cộng sản) sang Việt Nam giải giới quân Nhật, với việc thương lượng với thực dân Pháp để có thời gian chuẩn bị cho cuộc tranh đấu mới … – thì không thể cho rằng ý kiến của Hoàng Quốc Việt, với tư cách đại diện của Trung ương, là sai lầm trong mọi trường hợp. Nhất là những ứng xử liên hệ đến sách lược liên minh hành động với những thế lực bản địa (như với phe Hoà Hảo và Đệ Tứ…) hoặc các quyết định có ảnh hưởng tới cuộc chiến đấu toàn cục (như phát lệnh kháng chiến toàn quốc). Nhìn chung, ta có thể cho rằng nếu đường lối của xứ uỷ Nam kỳ do ông Giàu lãnh đạo đã sáng tạo ra những hình thức táo bạo, linh hoạt, tạo được sức mạnh vượt qua các phe phái (thân Nhật, phi cộng hoặc chống cộng) để tiến lên giành quyền lực cho cách mạng thì xét trên tổng thể và lâu dài lại không hoàn toàn thích đáng.
Ý nghĩa của đường lối ấy chỉ tỏ ra có hiệu lực tích cực vào một thời cơ đặc biệt thuận lợi nào đó về mặt chiến thuật, ở đó cuộc khởi nghĩa có điều kiện phát triển tốt nhất và kết thúc nhanh chóng nhất ngay tại các trung tâm đầu não của địch theo mô hình Petrograd – nói cụ thể là vào khoảng từ 9-3-1945 (ngày Nhật đảo chánh Pháp) đến 14-8-1945 (ngày Nhật đầu hàng đồng minh), chứ không thể vượt khỏi thời điểm ấy để trở thành định hướng cho cả giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ chống đế quốc mà nội dung của nó đã được khẳng định từ lâu về mặt lý luận là cuộc cách mạng tư sản dân quyền trong đó mặt trận dân tộc thống nhất là công cụ quyết định để Đảng cộng sản tập hợp lực lượng thực hiện các chương trình tối thiểu của mình.
***
Khi nhìn lại mọi việc, chắc hẳn ông Giàu biết rõ điều đó và cũng chỉ muốn Trung ương Đảng thông cảm với tinh thần trách nhiệm cách mạng cao nhất của ông trong những giới hạn của hoàn cảnh mà ông không thể vượt qua, quan trọng nhất là không thể liên lạc được với Trung ương trong suốt quãng thời gian nói trên. Tuy vậy khi đọc hồi ký của ông chúng ta lại thấy ông tỏ ra khá bực bội với “mấy ông lớn trong Trung ương”, trong đó có Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt, nguyên nhân như ông trình bày là do ông nghĩ rằng mấy “ông lớn” đó, đặc biệt Hoàng Quốc Việt, đã đứng hẳn về phía những kẻ đã đặt điều vu cáo cho ông nhiều tội lỗi tầy đình nên luôn luôn tỏ ra thành kiến và đánh giá ông một cách không công bằng, ngay trong những ngày diễn ra cách mạng tháng 8 và cả về sau này nữa.
Hồi ký của ông đã để ra nhiều đoạn nói đi nói lại nhận định này mà theo sự trình bày của ông là hoàn toàn bất công và sai sự thật, bao gồm mấy việc quan trọng như sau: 1935, bị bắt ông đã đầu hàng và khai báo một đảng viên cộng sản Pháp có nhiệm vụ liên lạc với Đông Dương; 1941 ông được Pháp tổ chức cho vượt “căng” Tà Lài để ra ngoài giả bộ hoạt động cách mạng nhưng thật sự là “phá cộng sản”; 1944 không hiểu sao người ta lại cho rằng ông đã chỉ điểm một đồng chí ở Trung ương được cử vào Nam để điều tra “vụ Trần Văn Giàu”; 1945 theo Nhật lập ra Thanh niên Tiền phong và lấy “cờ vàng sao đỏ” làm biểu tượng cho tổ chức này để đối lại với “cờ đỏ sao vàng” của Việt Minh. Còn nhiều chuyện khác nữa nhưng kết lại mọi việc đều quy về một tội khủng khiếp đối với một người Việt Nam và hơn nữa một người Việt Nam theo nghề “cách mạng chuyên môn”: đó là tội thoả hiệp có hệ thống với các loại kẻ thù của dân tộc, từ Tây đến Nhật, để bán đứng đồng chí và phá hoại cách mạng. Một cái tội như vậy thật đáng chết, như phe xứ uỷ Giải phóng đã từng tuyên án đối với ông, thực chất chỉ là hoàn toàn vu cáo, vậy mà sau này khi ra công tác ở chiến khu Việt Bắc 1951, ông đã bị Hoàng Quốc Việt dựa vào đó để hỏi cung suốt một buổi tối chỉnh huấn, có một anh cố vấn Tàu “trẻ bân” ngồi nghe bên cạnh một tay phiên dịch!
Đối với một người cộng sản kỳ cựu như ông, những cung cách ứng xử miệt thị và nghi ngờ ấy là cực kỳ đau đớn, nhục nhã cho nên sau nhiều lần muốn chết đi cho xong, ông đã gượng dậy, quyết chí bỏ công đi tìm nhân chứng, hồ sơ, lật lại các sự việc để minh oan cho mình, kết quả là trong rất nhiều trang hồi ký từng việc một đã được xới lại và xuất hiện trở lại với những chi tiết thực sự của chúng. Tất cả đều chứng minh là ông vô tội. Tất cả đều được ông kết luận là do sự vu cáo của hai nhân vật trong xứ uỷ Giải Phóng tên là Trần Văn Vi và Bùi Văn Dự mà ra. Chính những kẻ xấu này đã tìm cách vu cáo ông tạo nên nghi kị của Trung ương với ông.
Vấn đề “hai xứ uỷ”[5] trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ chủ yếu với hai nhân vật Trần Văn Vi và Bùi Văn Dự nói trên (ông Giàu không kéo vào đây một số nhân vật khác) vì vậy đã trở thành đầu mối gây nên oan khuất cho ông. Theo sự trình bày của ông thì cái gọi là xứ uỷ Giải phóng này chỉ bao gồm một số phần tử rất ít của xứ uỷ cũ còn sót lại sau cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1940, không hoạt động gì cả mà chỉ nằm im chờ thời. Sau khi ông Giàu lập ra xứ uỷ mới (tháng 10-1943) và hoạt động một thời gian, đến tháng 4-1945 (sau Nhật đảo chánh) thì từ “căng” Bà Rá trở về, Trần Văn Vi mới cho khôi phục lại xứ uỷ cũ ở Mỹ Tho, có Bùi Văn Dự làm phó ( và vì có cơ quan tuyên truyền mang tên Giải phóng, nên gọi là “xứ uỷ Giải phóng” để phân biệt với xứ uỷ do ông Giàu lập ra mang tên “xứ uỷ Tiền phong” vì có tờ báo mang tên Tiền phong). Nghe biết việc này ông Giàu đã tìm cách gặp họ để đặt vấn đề thống nhất nhưng không có kết quả sau nhiều lần thương lượng; và lý do họ nêu ra để không thể hợp tác được với Trần Văn Giàu là vì Trần văn Giàu là một Việt gian phản cách mạng với nhưng tội lỗi đã kể trên, đính chính thế nào họ cũng không nghe. Trong hồi ký, sau khi ngẫm nghĩ cả một đời, ông Giàu vẫn viện ra ác ý, lòng đố kị tầm thường của con người để giải thích sự vu cáo đó. Ông nói rằng nếu như mình là một anh bí thư của một chi bộ xã ở một xó Đồng Tháp Mười nào đó thì chẳng sao, nhưng đằng này ông lại là bí thư xứ uỷ lừng lẫy tên tuổi và tài năng nên mới bị ganh ghét, như ý nghĩa một câu Kiều: chữ tài liền với chữ tai một vần! Có chỗ ông nại thêm lý do: trong khi ông tìm mọi cách mà không gặp được Trung ương để giải thích thì do họ liên lạc được nên họ mới có cơ hội để gièm pha làm cho Trung ương hiểu sai về ông.
Giả sử như tin vào những gì ông Giàu trình bày chúng ta không thể không nêu ra câu hỏi sau đây: tại sao với một sự vu cáo tầy trời như vậy mà nhiều lần cho điều tra, Trung ương vẫn cứ tin vào lời lẽ vô lý, thiếu bằng cớ của những kẻ cố ý hại người đó? Nhất là dễ tin đến mức suốt trong một thời gian dài, trong khi vẫn tiếp xúc với phe Giải phóng để nghe họ thì Trung ương lại cố tình né tránh không liên lạc trực tiếp với ông để làm cho ra lẽ? Ông cũng cho biết từng đưa nhiều người ra Bắc liên hệ để tường trình mọi việc nhưng kết quả lại tồi tệ hơn: cuối cùng Hoàng Quốc Việt đại diện Trung ương vào Nam không phải để giải oan hoặc xử lý ngay cho ông mà phải sau một thời gian xảy ra bất đồng rồi mới kết luận rằng Trần Văn Giàu “vô kỷ luật, vô chính phủ” phải được (cùng với Phạm Ngọc Thạch) đưa ra Bắc!
***
Chúng ta cảm động khi đọc những lời thống thiết của một người viết hồi ký mà mục đích không có gì hơn là muốn đòi lại sự thật cho mình để được thanh thản ra đi vĩnh viễn, nhưng rất ngần ngại khi xem những lý giải của ông về những oan khuất mà ông phải chịu đựng là hoàn toàn thoả đáng. Ông đã nhập hai vấn đề làm một: một bên là những lời vu cáo giả định đến từ những kẻ ganh ghét ông và một bên là những sai biệt, có thể nói cả những bất đồng, của ông với Trung ương và bị Trung ương phê phán. Thực sự đó là hai vấn đề mà cái logic toát ra từ những gì ông viết trong hồi ký đã cho chúng ta thấy như vậy: hai vấn đề dó khác nhau, mỗi vấn đề có những tính chất riêng, có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất. Vấn đề khác biệt về đường lối giữa xứ uỷ Nam kỳ với Trung ương đã được nói ở trên: nó bộc lộ thật rõ trong quan điểm lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ giữa hai bên và cả trong việc ông Giàu bày tỏ quyết liệt sự bất đồng của mình với Hoàng Quôc Việt sau ngày 2 tháng 9 ở Sài gòn trong một số chủ trương cụ thể. Những sai biệt và bất đồng này là có thật, phần lớn do hoàn cảnh khách quan quy định, không thể dựa hoàn toàn vào những tị hiềm cá nhân để giải thích.
Còn về những ân oán giữa ông và mấy nhân vật của xứ uỷ Giải phóng có thể cũng không hoàn toàn đơn giản như ông diễn giải. Những điều mà họ vu cáo cho ông cực kỳ trầm trọng, trong thực tế chỉ là những tin đồn. Có thể do ganh ghét cá nhân mà bịa ra nhưng vẫn chỉ là tin đồn, không thể bỗng dưng dựng nên những chuyện động trời như vậy mà có thể làm hại ngay được người ta, bằng cớ là uy tín của ông – trừ việc bị phe chống đối bên ngoài bôi nhọ (cho đến nay vẫn bị những chuyên viên chống cộng tiếp tục khai thác) –, lại không hề sứt mẻ đối với quần chúng, với các đồng chí của ông trong xứ uỷ do ông lãnh đạo, với cả những người từ chối “khử” ông khi được phe Giải phóng xúi giục, do đó việc chuẩn bị cuộc khởi nghĩa cho đến ngày thành công đã không bị ảnh hưởng. Phân tích theo một hướng khác, cũng có thể xem những tin đồn ấy đã bắt nguồn từ những sự kiện đáng nghi ngờ mà vì một lý do nào đó, chưa thể xác minh hoặc xử lý nên có thể kéo dài trong dư luận, khiến những mơ hồ ban đầu trầm trọng thêm vì những đồn đãi mới, những yếu tố mới nẩy sinh trong đó không thể không nói đến những bất đồng về quan điểm giữa các nhóm khác nhau trong bản thân hàng ngũ cách mạng trước tình hình mới ở Nam bộ, nhất là trong điều kiện thiếu vắng sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương.[6]
Dù sao thì tạm gác lại những khía cạnh phức tạp khác của vấn đề chưa có điều kiện để làm rõ ở đây (nhất là quan điểm đầy đủ và khách quan của nhóm “Giải phóng”) mà chỉ xét chuyện họ quy tội ông Giàu, chúng ta thấy trong tất cả các thứ mà họ nêu ra đều liên hệ đến chuyện “làm tay sai cho địch”, thật ghê gớm đối với nội bộ những người cộng sản, nhưng nhìn sâu vào hiện tượng thì trong đó lại có những chuyện ai cũng có thể nhận ra sự phi lý của chúng và có thể phủ nhận hết sức dễ dàng – như ông Giàu đã làm – vì có rất nhiều người hợp tác với ông, biết rõ sự việc vẫn còn sống và đang giữ những chức vụ quan trọng có thể viện ra làm nhân chứng (như trong chuyện vượt “căng Tà Lài”, chuyện “cờ vàng sao đỏ” của Thanh niên Tiền phong…). Tuy vậy trong những tố cáo lại có một chuyện khởi đầu hơi mập mờ đó là việc năm 1935 một đảng viên cộng sản Pháp làm nhiệm vụ liên lạc với Đông Dương tên là Deschamps bị bắt sau khi ông Giàu đi tù không lâu, từ đó sinh ra nghi vấn đây đó về việc người đảng viên liên lạc bị bắt là do ông Giàu khai báo. Ông cho đó là không đúng nên sau này đã tìm ra mọi bằng cớ chứng minh được rằng kẻ khai báo Deschamps là một nhân vật khác, không dính dáng gì đến ông. Nhưng vào lúc bấy giờ, phần ông thì tiếp tục ở tù (5 năm), phần “đoàn thể” của ông thì vì hoạt động trong bí mật, cách bức, chưa có cơ hội để thẩm tra, cho nên mọi việc đã trở thành tiếng đồn treo lở lửng trên số phận chính trị của ông, rất dễ để những người ganh ghét hoặc bất đồng với ông khai thác. Tiếng đồn đó là có cơ sở trong thực tế chứ không phải vu vơ. Nếu Trung ương có bị tác động bởi những báo cáo loại này từ nguồn tin của “phe Giải phóng” thì cũng chỉ là những thông tin để cảnh giác và điều tra chứ không thể để tuỳ tiện và dễ dàng kết luận như ông đã suy luận rằng “các ông lớn Trung ương” đã đứng về phe bên kia để “trù” ông.
Trong phần cuối của hồi ký, ông Giàu có kể một sự kiện chứng tỏ nhận xét trên đây là có cơ sở: đó là việc đầu năm 1988 ông được Lê Đức Thọ – mệnh danh lão Sáu Búa lừng danh mà chỉ nghe tên ai cũng ớn – mời cơm cùng một số đồng chí lão thành tại Sài gòn, nhân đó ông có đề nghị Lê Đức Thọ khi về Hà Nội can thiệp với Ban tổ chức Trung ương ra văn bản khẳng định tính chất không có cơ sở của những vu cáo về ông bấy lâu nay. Lời đề nghị được chấp nhận và một tháng sau ông Giàu nhận được quyết nghị do Nguyễn Đức Tâm (đang làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương thay Lê Đức Thọ) ký, trong đó có những xác nhận làm ông hài lòng, duy chỉ có vụ Deschamps 1935 thì vẫn quy trách nhiệm cho ông. Tất nhiên ông Giàu khiếu nại vì ông vẫn cho là mình vô tội, mặc dù những gì ông kể trong hồi ký về vụ này còn có nhiều chỗ mập mờ (nhất là việc ông nhận khi bị bắt có khai này nọ, chứ không kiên cường được như Trần Phú) làm người ta có thể suy diễn vấn đề theo hướng khác. Dù sao với một nhà cách mạng trung kiên như ông thì một cái kết thúc như vậy cho cả một đời buồn phiền vì tai tiếng cũng có thể gọi được là thắng lợi “về cơ bản” rồi.
Điều đó chứng tỏ rằng, nếu có bị Trung ương phê bình thì những phê bình ấy chủ yếu không hề phát xuất từ mấy chuyện ông bị vu cáo đã bán mình cho Tây, cho Nhật: mấy chuyện động trời này mà lúc bấy giờ bị Trung ương cho là cần xử lý thì đời ông chắc hẳn đã chuyển sang hướng khác hoàn toàn rồi. Trái lại, sau ngày 2 tháng 9, 1945, sau khi bị Hoàng Quốc Việt ngưng chức xứ uỷ Nam kỳ, chuyển ông ra Bắc gặp Trung ương (chắc chắn là để kiểm điểm), khi ông đề đạt nguyện vọng được sang Mặt trận Biển Hồ (Campuchia) hoạt động tiếp tế cho kháng chiến Nam bộ thì được chấp nhận ngay, không có gì cần thẩm tra lâu dài. Đầu năm 1947, ông được điều động về Việt Bắc đảm nhận chức vụ Tổng giám đốc Nha Thông tin. Năm 1951, trong một đợt chỉnh huấn theo kiểu Mao, bị Hoàng Quốc Việt đem chuyện cũ ra hoạnh hoẹ, nhưng cũng chẳng làm gì được ông. Năm ấy ông vẫn tham gia Bộ giáo dục, để từ đó về sau luôn nhận lãnh các chức vụ quan trọng trong ngành này. Trong lí lịch của ông, vụ Deschamps thực sự chỉ còn là một vết mờ, dù chưa xoá hẳn được nhưng chẳng liên can gì đến những vu cáo động trời từng đồn đãi trong dư luận.
***
Trong lời nói đầu của cuốn hồi ký của mình, ông Giàu có viết dòng sau đây: “Tôi chỉ viết hồi ký khoảng thời gian 1940-1945 vì đó là thời gian tôi sống có chất lượng hơn hết trong cuộc đời dài quá 80 năm, xấp xỉ 90 năm”. Thực sự thì với tuổi đời 100 năm hiếm có của ông, ông đã bỏ ra hết 80 năm (ông bắt đầu hoạt động khi 20 tuổi) theo đuổi cuộc cách mạng cộng sản, ở nhiều nơi, làm nhiều việc, đáng chú ý nhất là 50 năm trong ngành giáo dục, nhưng khi viết hồi ký ông chỉ viết về 5 năm ngắn ngủi, 1940 đến 1945, ngắn ngủi nhưng ông cho rằng đó là thời gian ông “sống có chất lượng hơn hết”. Nói cho chính xác về khoảng thời gian này thì phải tính từ cuối năm 1941 khi ông vượt “căng” Tà Lài ra hoạt động cho đến ngày ông lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa tháng 8 ở Nam bộ. Hầu hết thời gian trước khi ra khỏi Tà Lài ông đều sống trong tù. Sau ngày 2 tháng 9, 1945, không theo thủ tục quy định do Hoàng Quốc Việt đề ra, ông đã tự tiện phát tán “Lời kêu gọi kháng chiến”, để liền sau đó tự nói với mình: “Thế là đời chính trị của Trần Văn Giàu đã hết”.[7] Có nghĩa là cuộc sống “có chất lượng” của ông gom vào những ngày tháng ngắn ngủi ấy cũng đã hết.
Hiểu theo nghĩa rộng thì thật sự sau đó ông vẫn chưa dứt khỏi nghề làm làm chính trị vì ông vẫn còn là một đảng viên cộng sản và còn tin tưởng mãnh liệt vào Lenin (và cả Stalin) mà ông thần phục từ thời thanh niên. Nhưng có một cái gì đó không còn gì là khí thế vốn có của ông trong mấy dòng chữ sau đây: “Kiểm lại, tôi thấy trong hơn ba, bốn mươi năm bị hàm oan, tôi không hề rời công tác, việc gì giao cho dầu nhỏ tôi cũng làm tròn, không giao việc gì thì tôi viết sách, viết báo, dạy học và tôi đã đạt những thành tựu tôi mong muốn, giữ vững tư cách đảng viên, giữa vững nhân cách Việt Nam”. Nhẫn nhục, khiêm tốn và đã mất đi hoàn toàn cái hơi hám của thứ “chính trị” định nghĩa như một thái độ dấn thân đầy hứng khởi, sáng tạo để biến đổi thế gian cùng với cái ý chí mãnh liệt của một người muốn ghi tên mình vào hàng ngũ những lãnh tụ thay đổi thế gian như trong những ngày Cách mạng Mùa thu ở Sài Gòn.
Nhưng cũng qua những gì ông viết về những ngày làm “chính trị” có nội dung trên đây như một hoài niệm mà chúng ta biết được những gì đã diễn ra thực sự ở Nam bộ và vai trò thực sự của ông trong cuộc khởi nghĩa Mùa thu đó: đó sẽ là những tư liệu sống của một người cộng sản vẫn còn đủ lòng tự trọng để nói lên sự thật, giúp những người viết sử về sau dựng lại trung thực hơn những gì họ đã viết, đặc biệt làm rõ hơn mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, giữa lãnh đạo và tự phát, ghi nhận tính sáng tạo đa nguyên trong đấu tranh cách mạng, từ đó hy vọng chấm dứt được các thứ lý giải có tham vọng không chính đáng muốn quy mọi hiện tượng phức tạp về một đầu mối giả tạo,[8] và cũng căn cứ vào đó chấm dứt việc khái quát hoá những sai lầm có giới hạn của ông trong cuộc khởi nghĩa lịch sử ấy.
Riêng với tôi, một kẻ hậu sinh không quen ông đến độ thân thiết, từ đất Sài gòn này, cũng có một thời theo tiếng gọi của Marx, của Lenin mà đi theo con đường làm cách mạng vô sản, nay không còn tin tưởng bao nhiêu vào con đường ấy nữa, nhưng đọc hồi ký của ông, tôi vẫn quý trọng ông như một tiền bối, chăm chú theo dõi những việc ông kể về lịch sử đất nước để mong hiểu thêm lịch sử của con người ông nhiều hơn: tôi đã hiểu ông như một chiến sĩ vô sản của đất Nam kỳ mà sự cá biệt độc đáo trong tính cách của ông đã vượt qua rất xa vai trò ông giữ trong cái tập thể mà ông muốn phụng sự suốt đời. Ông đam mê, kiên cường, chết sống cho sự nghiệp chung cũng là để thể hiện vị trí cá nhân của mình đến chỗ cao nhất. Nhưng cũng chính từ tham vọng “chính trị” ấy ông đã bước ra ngoài cái chuẩn mực mà lý luận cách mạng của ông đã quy định thành lý do tồn tại cho cái “đoàn thể” hiện thân cho thứ lý luận đó. Có lẽ từ đó ông tạo ra bi kịch, oán thù, hiểu lầm, và tiếc nuối cho mình. Và cũng chính vì vậy mà khi ông làm cộng sản không có Trung ương lãnh đạo thì ông sống một cuộc sống “ có chất lượng”, tuy bị tai tiếng nhưng đầy say mê và đạt được vinh quang tột đỉnh. Còn khi ông trở về làm cộng sản có sự lãnh đạo của Trung ương, thì tuy vẫn có thể trở thành anh hùng nhưng thâm tâm dường như ông vẫn coi đó chỉ là một thứ anh hùng “phải đạo”, anh hùng xó bếp. Một thứ anh hùng chấm dứt “anh hùng”. Một thứ chính trị hết còn là “chính trị”.
***
Hồi ký ông viết đã lâu nhưng chỉ cho xuất hiện sau khi ông mất khiến chúng ta không khỏi bùi ngùi nhận ra trong hành vi đó ý nghĩa một cuộc dấn thân tổng lực cuối cùng nhằm vớt vát lại sự chói sáng cho một vầng hào quang đã bị cái thực thể mà ông phấn đấu hy sinh suốt đời làm lu mờ đi. Cái hậu mà hồi ký của ông gợi ra có thể làm yên lòng những người quý mến ông nhưng với ông có thể chỉ là thời điểm để ông nhớ lại “những đồng tuyết năm xưa” nhiều hơn. Đó là một cái hậu, hiểu theo nghĩa “chính trị” của ông, có vẻ như không có gì gọi được là “cách mạng vô sản” cả!
Chú thích
[1] Đăng nhiều kỳ từ tháng 12/2010 đến tháng 3/2011 trên hai trang mạng Diễn Đàn và Viet-Studies, đăng lại tòan bộ như Phụ Lục trong số Thời Đại Mới này.
[2] Theo nhận xét của Hoàng Tùng thì Trần Văn Giàu là một trong những người học ở Liên xô về có ý xem thường Nguyễn Ái Quốc, cho ông này là “dân tộc chủ nghĩa, trình độ lý luận kém” (Diễn Đàn, số 123, tháng 11-2002). Cũng cần chú ý một chi tiết này: lúc bấy giờ, khi nhắc đến Nguyễn Ái Quốc, trong hồi ký, ông Giàu đã gọi bằng “anh”: “Bây giờ Nguyễn Ái Quốc còn sống không, nếu còn thì làm sao anh biết được mọi uẩn khúc ở Nam Kỳ?” Trong một bài viết trên một tạp chí nào đó (tôi quên tên LP), ông Giàu thuật lại chuyện gặp Nguyễn Ái Quốc lần đầu (lúc ấy đã là Hồ Chí Minh) và cũng gọi bằng “anh” nhưng đã bị Hồ Chí Minh khuyên không nên gọi như vậy mà nên xưng hô như mọi người.
[3] Xem Lữ Phương: Từ Nguyễn Tất thành đến Hồ Chí Minh, Chương “Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”, http://www.viet-studies.info/LuPhuong/LuPhuong_ViecThanhLapDCSVN.htm
[4] ] Xem Nguyễn Phan Quang: Giáo sư Trần Văn Giàu – Nghe thầy kể chuyện, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2011, tr. 60 -71.
[5] ] Xem Phan Văn Hoàng: “Bí thư Xứ uỷ Trần Văn Giàu và Cách mạng tháng Tám 1945 ở Nam bộ”, Hồn Việt 27-9-2010, http://honvietquochoc.com.vn/Nhan-vat/Bi-thu-Xu-uy-Tran-Van-Giau-va-Cach-mang-thang-Tam-.aspx
[6] Vấn đề phân hoá chính trị, tôn giáo đặc biệt xảy ra náo nhiệt ở Nam kỳ trong giai đoạn Nhật Pháp ghìm nhau thống trị Việt Nam vào thời kỳ 1940-1945 là một chuyên đề quan trọng cần được nghiên cứu, trong đó sự phân liệt không phải chỉ bộc lộ qua những phe phái khác nhau, mà còn thể hiện trong bản thân những tổ chức cùng một đường lối chung trong đó có cả những tổ chức mệnh danh “cộng sản”, như trong phe Đệ Tứ (Nhóm La Lutte của Tạ Thu Thâu, nhóm Militant của Hồ Hữu Tường, nhóm Octobre của Lư Sanh Hạnh) cả trong hàng ngũ Đệ Tam nữa: về mặt này nếu không kể sự khác biệt giữa Bắc và Nam mà chỉ nói đến Nam bộ thôi thì sự xung đột giữa “hai xứ uỷ” (“Giải phóng” và “Tiền Phong”) không thuần chỉ là vấn đề ganh ghét giữa những cá nhân. Có thể xem vài ghi chép sơ lược của Nguyễn Văn Trấn trong cuốn Viết cho Mẹ và Quốc hội (sách chuyền tay xuất hiện ở Việt Nam năm 1995) về cuộc tranh luận giữa báo Giải phóng (của phe “Giải phóng”) với những luận điểm trong một số bài viết của Trần Văn Giàu (ký Xuyên Vân Nhạn) để phát triển thêm đề tài này.
[7] Trần Hữu Phước ghi: “Trần Văn Giàu “không phải là người buông giáo”, Hồn Việt 9-4-2011 http://honvietquochoc.com.vn/Tu-lieu/Tu-lieu-lich-su/Tran-Van-Giau-khong-phai-la-nguoi-buong-giao.aspx
[8] Trong phần 4 của Hồi ký, ông Giàu có than phiền về cách viết sử xuyên tạc đó như sau: “Sau 9-3-1945, chị Mười Tốt [(Nguyễn Thị Thập)] còn ở Mỹ Tho, vậy mà theo một đoạn hồi ký của Thép Mới (in ấn năm 1995, nhân kỷ niệm cách mạng tháng Tám), có bài của Thép Mới nói rằng, tháng 3 năm 1945, có chị Mười và Dân Tôn Tử có mặt ở Bắc và Trường Chinh đã trao cho họ chỉ thị: “Nhật-Pháp đánh nhau, hành động của chúng ta”. Ôi! Chị Mười khi ấy ở Mỹ Tho và Dân Tôn Tử (tức đồng chí Trần Văn Vi), ngày 10-3-1945, mới ra khỏi căng (trại giam) Bà Rá thì làm sao họ đem Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 9 tháng 3 về Nam được? Bịa như thế thì than ôi, cũng có người tin, hễ tin như vậy thì tất phải đặt câu hỏi: “tại sao được chỉ thị của Trung ương mà Xứ uỷ Nam Kỳ và anh Giàu không làm theo?”. Sao mà bày đặt ác thế? Ác thế để làm gì? Bịa trắng trợn, sao mà sách ở một nhà xuất bản lớn ở Hà Nội lại đăng? Tai hại cho lịch sử quá.”
Nguồn: http://www.viet-studies.info/LuPhuong/201121_LuPhuong.htm
© Thời Đại Mới
DANH NHÂN VIỆT, THUNG DUNG
Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011
Tư liệu quý về Hồ Chí Minh
DANHNHANVIET. Tiếp theo bài viết “Huyền thoại kép” Hồ Chí Minh vinh quang và những hệ lụy là bài viết Thử tìm lời giải cho câu hỏi: Cụ Hồ là ai? cũng của tác giả Ngô Trần Đức. Đây là công trình nghiên cứu có chứng cứ và tư liệu, cẩn trọng và khách quan. "Cụ Hồ là người chiến thắng, vì nền tảng văn hóa của Cụ sâu rộng, lý tưởng của Cụ cao cả, phẩm cách của Cụ trong sáng, phương pháp tư duy của Cụ uyển chuyển, biết linh hoạt ứng biến trước mọi hoàn cảnh, như Cụ thường nói “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, khi “tình hình, nhiệm vụ đã thay đổi,… chính sách và khẩu hiệu cũng phải thay đổi cho hợp với tình hình mới”.Vì vậy, Cụ được thừa nhận là biểu tượng cho khát vọng Độc lập, Tự do, Lương tâm và Trí tuệ của các dân tộc bị áp bức; được Tạp chí Time của Mỹ tổ chức bầu chọn vào danh sách 20 nhà lãnh đạo có uy tín hàng đầu trong tổng số 100 nhân vật được bầu chọn là những người nổi tiếng nhất thế giới trong thế kỷ XX."
THỬ TÌM LỜI GIẢI CHO CÂU HỎI: CỤ HỒ LÀ AI ?
Ngô Trần Đức
Cụ Hồ là ai? Đây là một câu hỏi được giới nghiên cứu trong và ngoài nước nêu lên từ lâu, đã có nhiều lời giải khác nhau, đến nay vẫn tiếp tục có thêm những kiến giải mới. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh quả là một nhân vật đa dạng, phong phú, hấp dẫn, có khả năng sống với nhiều thời đại. Vậy Cụ Hồ là ai? Là dân tộc chủ nghĩa hay quốc tế chủ nghĩa? Là người mácxít hay người theo đạo Khổng? Là cộng hòa, cộng sản hay xã hội dân chủ? Chủ nghĩa cộng sản với Hồ Chí Minh là mục đích hay là phương tiện? v.v..
I. Lược qua một vài ý kiến tiêu biểu
Ph. Devillers trong lời Tựa cho cuốn “Hô Chi Minh à Paris 1917-1923” của Thu Trang-Gaspard, có nêu câu hỏi: Tại Đại hội Tours, Nguyễn Ái Quốc tin theo Luận cương của Lênin, bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc Tế 3, nhưng ông đã phải là người mácxít chưa? Ông có tin vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, một giai cấp lúc đó còn hết sức nhỏ bé về số lượng ở Đông Dương? Ông có tin vào học thuyết đấu tranh giai cấp và sự cần thiết phải xây dựng một nền chuyên chính vô sản hay chưa? Tại sao lúc nào ông cũng chỉ tập trung vào vấn đề thuộc địa, đặt nó lên trên tất cả các vấn đề khác?
“Ông tin vào lời kêu gọi “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”, bởi đối với ông, việc giải phóng đất nước bị chinh phục chỉ có thể tiến hành bằng bạo lực chứ không thể bằng những cải cách rụt rè. Vậy, cần làm rõ: sự lựa chọn đó xuất phát từ niềm tin trong hệ tư tưỏng, từ sự ngả theo hệ lý luận mácxit một cách sâu sắc hay chỉ là từ một nhu cầu thực tế? Nếu cách xử sự của Pháp khác đi thì phải chăng Người vẫn chỉ có một sự lựa chọn đó?”[1].
Alain Ruscio trong bài “Chân dung một người bônsêvich vàng”[2] cũng nêu một câu hỏi: Nguyễn Ái Quốc có thật sự muốn trở thành một đảng viên Xã hội không? Để trả lời, ông dẫn Trần Dân Tiên : Tôi vào Đảng Xã hội Pháp “ chỉ vì đấy là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Theo Ruscio, nghiã là Nguyễn Ái Quốc chỉ nhắc đến lý tưởng cộng hoà Pháp chứ không phải đến truyền thống chủ nghĩa xã hội Pháp hay Cách mạng tháng Mười Nga? Tác phẩm chính trị đầu tiên mà Nguyễn dịch ra tiếng Việt không phải là“Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Mác - Enghen hay “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” của Lênin, mà là “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu!
Cũng theo Ruscio, nguờì ta không tìm thấy một dấu hiệu nào cho biết dự kiến chính trị của Nguyễn Ái Quốc vào thời đó rằng sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng An Nam thành một nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa!
Pierre Brocheux, một sử gia Pháp đã hơn 50 năm nghiên cứu về Hồ Chí Minh, lại đưa ra một nhận định: “Hồ Chí Minh là một người theo đạo Khổng, ông ưa các giải pháp ôn hoà hơn là cực đoan”. Hồ Chí Minh đã lên án các cuộc đánh người, giết người trong Cải Cách Ruộng Đất, và gọi như thế là hành xử theo lối bọn đế quốc, là hành vi tội phạm, là tội ác!
Theo Brocheux, Hồ Chí Minh có một lần viết về vụ Trăm hoa đua nở ở Trung Quốc, có gọi các nhà văn - như Đinh Linh - là phái hữu; nhưng ông không hề nhắc tới tên của bất cứ văn nghệ sĩ, trí thức nào của Viêt Nam.[3]
GS Nhật Bản Yoshiharu Tsuboi (Đại học Waseda) trong tham luận tại Hội thảo Việt Nam học lần thứ ba, nêu vấn đề: “Có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời mình là những giá trị của nền cộng hoà mà cơ sở lý luận của nó là Tự do, Bình đẳng, Bác ái”.Theo ông, tinh thần cộng hoà Pháp mang tính lý tưởng rất cao, nó không quan tâm đến con người đó là ai, sinh ra ở đâu, trong gia đình, dòng họ nào,…vấn đề quan trọng là giá trị của bản thân con người đó có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính hay không?
Nền cộng hoà được xây dựng bởi những cá nhân, theo quan điểm giá trị mới về con người, rất khác với quan niệm của Nho giáo. Hồ Chí Minh là nhà chính trị duy nhất ở châu Á đã nhận thức được một cách đúng đắn tinh thần của nền cộng hòa Pháp và đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam. Khi đã trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh vẫn ưu tiên đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho mục tiêu Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Ông phân tich:
- Độc lập mà Hồ Chí Minh muốn là một nhà nước có chủ quyền, theo quan niệm cận đại, xây dựng một chế độ Dân chủ Cộng hòa, xây dựng con người mới gánh vác công việc quốc gia.
- Tự do không đơn thuần chỉ là quyền tự do định đoạt chính sách đối nội, đối ngoại của một nhà nước độc lập, mà là quyền tự do của mỗi người dân được hưởng với khả năng và trách nhiệm của mình, của một chủ thể xây dựng nền cộng hòa.
- Hạnh phúc nghĩa là mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình và phải biết chủ động tích cực đấu tranh để giành lấy hạnh phúc.
Như vậy, theo ông về mặt này, ông Hồ không phải là người cộng sản chính thống theo quan điểm Mác –Lênin. Cho nên, nếu chỉ lấy ý thức hệ Mác-Lênin để lý giải cụ Hồ là không đầy đủ, do còn thiếu cái nền văn hoá - tư tưởng phương Tây, do không nắm được “tinh thần cộng hoà”, mà vẫn đóng khung trong cách nhìn “đấu tranh giai cấp”. Bản thân ông Hồ, để nhận viện trợ của phe xã hội chủ nghĩa cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, ông đã phải phát ngôn và hành động như một người cộng sản, đó là do thúc ép của hoàn cảnh lịch sử, mà ông không có sự lựa chọn nào khác!
Ngoài ra, có một vài học giả Việt Nam, gần đây cũng đưa ra những nhận định riêng của mình về Hồ Chí Minh . Có người cho rằng Hồ Chí Minh chỉ khoác áo cộng sản chứ không phải là người cộng sản, ông là người xã hội dân chủ từ gốc rễ.
GS Hoàng Ngọc Hiến, phát biểu trong một hội thảo, cho rằng sự tiếp nhận chủ nghĩa Mác ở Hồ Chí Minh là một quá trình, phải nghiên cứu quá trình đó để xem Hồ Chí Minh đã tiếp biến chủ nghĩa Mác như thế nào? Theo GS Hiến, Nguyễn Ái Quốc từng ở chung với Phan Văn Trường khoảng 6 tháng, đó là Trường Đại học của Cụ Hồ! mà ông Trường lại là một người xã hội từ đầu đến chân! Tuy không nói thẳng ra, nhưng người nghe đều hiểu ý của ông: Hồ Chí Minh là một người xã hội dân chủ hơn là một người cộng sản.
Còn có thể dẫn thêm một vài ý kiến khác nữa, nhưng trên đây là mấy lập luận tiêu biểu. Vậy Hồ Chí Minh là ai? Cộng sản hay Dân tộc? người yêu nước hay chiến sĩ quốc tế? Cộng hòa, Cộng sản hay Xã hội dân chủ? Theo chủ nghĩa Mác hay theo đạo Khổng, v.v..
II. Thử tìm lời giải cho câu hỏi: Cụ Hồ là ai ?
Để trả lời câu hỏi này một cách rõ ràng, theo tôi, không thể chỉ dựa vào một, hai yếu tố nào đó một cách tách biệt để lập luận, lý giải, rồi khẳng định Cụ Hồ là ai. Theo thiển ý, phải đặt mỗi yếu tố đó trong tổng thể cuộc đời Hồ Chí Minh, nhân cách Hồ Chí Minh, văn hoá Hồ Chí Minh, phương pháp hành xử Hồ Chí Minh,…mới hiểu đúng được thực chất con người Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một nhà báo Mỹ, từ rất sớm đã đưa ra nhận xét: “Hồ Chí Minh là một trong số những nhân vật lạ lùng nhất của thời đại chúng ta: một chút Gandhi, một chút Lênin,…nhưng hoàn toàn Việt Nam”[4]. Đây là một gợi ý cần được tham khảo.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam nhất trong những người Việt Nam, là sự kết tinh những giá trị tiêu biểu nhất của văn hoá - lịch sử - đất nước và con người Việt Nam. Do đó, muốn hiểu được Hồ Chí Minh, phải bắt đầu từ hiểu văn hoá và con người Việt Nam.
Đó là một nền văn hoá khoan dung, cởi mở, có khả năng dung hoá, tích hợp những yếu tố tích cực, tiến bộ từ ngoài vào, không chút hẹp hòi, kỳ thị, miễn là nó không đi ngược lại với bản chất nhân văn của văn hoá Việt Nam. Vì vậy, văn hoá Việt Nam sớm có hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”. Con người nông dân Việt Nam ngày xưa vốn rất thực tế, họ có thể vừa thờ Thần, thờ Phật lại vừa thờ cả ma quỷ (thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề), không hoàn toàn tin, nhưng để nó không trở thành kẻ thù của mình, không làm hại mình, đơn giản vậy thôi. Cũng nên coi đó là một nét khôn ngoan trong phương pháp xử thế của người Việt xưa mà ta cần xem xét.
Khi còn ở trong nước, Nuyễn Tất Thành đã được hấp thụ một nền Quốc học và Khổng học khá cơ bản, đủ sức tạo cho anh một bản lĩnh văn hoá vững vàng để có thể “hòa nhi bất đồng”.
Ra nước ngoài, anh Thành có điều kiện đi nhiều, hiểu rộng, biết nhiều ngoại ngữ, đến được nhiều nước, làm nhiều nghề, tiếp xúc với nhiều vĩ nhân,…nghĩa là có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn hoá, gia nhập nhiều tổ chức, vào nhiều hội, đoàn (Công đoàn lao động hải ngoại ở Anh, các Hội du lịch, Hội nghệ thuật và khoa học, Câu lạc bộ Faubourg ở Pháp, Đảng Xã hội. Sau khi đã vào Đảng Cộng sản rồi, vẫn tham gia Hội Nhân quyền, rồi cả Hội Tam điểm, đến với chủ nghĩa Mác rồi vẫn đến với chủ nghĩa Tôn Dật Tiên,…) để học cách tổ chức, khảo sát các cơ chế chính trị - xã hội,…nhằm chắt lọc lấy cái hay, cái tốt, cái thích hợp, phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng nước Việt Nam độc lập trong tương lai.
Do vậy, Hồ Chí Minh được coi là biểu tượng của sự tích hợp văn hoá Đông-Tây. Nói tích hợp nghĩa là biết tiếp thu có chọn lọc những giá trị từ bên ngoài nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng bên cạnh sự thâu hoá những giá trị chung của nhân loại. Cho nên không có gì lạ khi thấy trong văn hoá Hồ Chí Minh chứa đựng những yếu tố tích cực của tinh thần cộng hoà Pháp, dân chủ và nhân quyền Mỹ, tinh thần trọng đạo đức của Khổng giáo, đức từ bi, cứu khổ, cứu nạn của Phật, lòng nhân ái của Chúa, phép biện chứng của Mác, tinh thần cách mạng của Lênin, chủ thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên, v.v..mà vẫn hoàn toàn Việt Nam. Như ta đã thấy: khi còn ở Pháp hay Nga, Nguyễn Ái Quốc có thể mặc Âu phục, đội mũ phớt, thắt cravate, viết báo, đọc diễn văn với một văn phong rất “Tây”, nhưng khi về Trung Quốc lại giản dị trong bộ quân phục Bát lộ quân; sang Thái Lan, ở chùa, khoác áo cà sa; về đến Chỉ Thôn (Vân Nam) lại sẵn sàng viết và đọc văn tế cầu hồn cho những kiều bào ta bị bom Nhật sát hại:
Nam mô bồ tát đế tôn,
Tiếp dẫn linh hồn về Mạc tư khoa!
Người chiến thắng là người không “chấp nê”, mà có tinh thần “phá chấp”, biết thích ứng trước tình hình thực tế mà không để đánh mất mình - đúng như Hồ Chí Minh đã từng trả lời khi có người hỏi: ông là ai? -Tôi vẫn là tôi ngày trước, một người yêu nước.Vận dụng phương pháp trên vào tìm hiểu Cụ Hồ là ai, chúng tôi thử từng bước lý giải những vấn đề đang đặt ra.
1. Hồ Chí Minh có phải là người suốt đời theo lý tưởng cộng hoà?
Trở lại ý kiến của GS Nhật Bản Tsuboi cho rằng “giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng suốt đời mình là tinh thần cộng hoà, mà cơ sở của nó là Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, liệu có phải hoàn toàn như vậy không?
Đúng là trên hành trình đi ra với văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp trước tiên và có lẽ nó cũng để lại những dấu ấn sâu đậm trong nội dung và phong cách văn hoá của Cụ Hồ. Tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý tưởng nhân quyền, dân quyền và pháp quyền của các nhà Khai sáng Pháp, vận dụng nó vào cuộc đấu tranh, phê phán chế độ thực dân, đòi các quyền ấy cho nhân dân các nước thuộc địa. Yêu sách 8 điểm, lời mở đầu Tuyên ngôn Độc lập 1945, bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946,…đều in dấu ảnh hưởng các giá trị của nền cộng hoà Pháp, nó đã trở thành một phần trong mục tiêu mà Hồ Chí Minh theo đuổi – nhưng đó có phải là cái đích duy nhất và mục tiêu cuối cùng của ông hay không, thì vẫn cần phải bàn thêm .
Theo tôi, cái giá trị lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo đuổi suốt đời, như chính Người đã tuyên bố là “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”. Điều quan trọng ấy rất tiếc lại không có trong bảng giá trị của nền cộng hoà Pháp. Đó cũng là điều mà trong khi đàm phán, tranh luận với chính giới Pháp năm 1946, Cụ đã chủ động bổ sung vào. Hồ Chí Minh có lần nói: “Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức: Tự do, Bình đẳng, Bác ái, Độc lập”[5]. Thêm Độc lập vào để ràng buộc họ: “Nước Pháp muốn độc lập, không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không độc lập?”
GS Tsuboi đã lý giải khẩu hiệu Tự do, Bình đẳng, Bác ái rất đúng với tinh thần phương Tây, nhưng lại không thật đúng theo quan niệm của Hồ Chí Minh.
Tự do theo tinh thần cộng hoà Pháp trước hết là tự do cá nhân, vì tiền đề của nền cộng hòa Pháp được xây dựng trên quan điểm giá trị về con người cá nhân, nhất là quyền tự do cá nhân.
Còn Hồ Chí Minh, trước hết vẫn là sản phẩm của nền văn hoá Việt Nam, văn hoá Phương Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt quốc gia, dân tộc lên trên cá nhân. Tự do theo tinh thần Hồ Chí Minh trước hết vẫn là tự do của toàn dân tộc chứ chưa phải là tự do cá nhân, là giải phóng cho dân tộc thoát khỏi ách nô lệ thực dân, được làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình (chứ chưa lấy giải phóng tự do cá nhân làm mục tiêu).
Bình đẳng hiểu theo tinh thần cộng hoà là chống lại mọi sự phân biệt đối xử về dân tộc, màu da, giới tinh,…Mỗi cá nhân sinh ra đều có giá trị như nhau, như Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ mà Hồ Chí Minh đã trích dẫn: ‘Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng” và coi đó là quyền tự nhiên của con người: bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, về nhân phẩm, về cơ hội, nhất là bình đẳng trước pháp luật.
Bình đẳng là một khái niệm không xa lạ với Hồ Chí Minh vì nó vốn là một lý tưởng, một ước mơ ngàn đời của nhân dân lao động Việt Nam về một xã hội công bằng, không còn áp bức bất công, không còn cách biệt giầu, nghèo…
Tuy nhiên, quan niệm của Hồ Chí Minh về bình đẳng cũng có nội dung khác với phương Tây: nếu tinh thần cộng hoà coi trọng quyền bình đẳng giữa các cá nhân thì Hồ Chí Minh lại nâng nó lên thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Từ Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, Hồ Chí Minh suy ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Bác ái (fraternité: có lẽ phải dịch là Hữu ái mới phù hợp, vì gốc của nó là từ frère, fraternel, nghĩa là tình anh em, tình đồng đội. Bác ái (philanthropie) có nghĩa quá rộng, nó đòi hỏi một tình cảm xuyên dân tộc, xuyên giai cấp, theo kiểu thuyết kiêm ái của Mặc tử, hay lòng bác ái của Chúa : phải yêu cả kẻ thù của mình!).
Hữu ái gần với Hồ Chí Minh hơn, ông vốn từng là môn đệ của Khổng giáo, sớm thấm nhuần tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”, nên Hồ Chí Minh thường quen gọi những ngưòi lao động, các dân tộc bị áp bức là anh em. (hỡi anh em ở các thuộc địa!, các dân tộc anh em, các nước anh em, vừa là đồng chí, vừa là anh em,…)
Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do, Bình đẳng, Bác ái qua lăng kính của người dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp, nên ông chỉ coi đó là những yếu tố cần chứ chưa đủ. Vì vậy, không thể coi những giá trị của nền cộng hoà Pháp là mục tiêu theo đuổi suốt đời của Hồ Chí Minh .
2. Hồ Chí Minh có phải chỉ thuần túy là người theo chủ nghĩa dân tộc?
a. Hồ Chí Minh trước hết là một người yêu nước nồng nhiệt
Điều này đã được khẳng định trong danh xưng của Cụ: Hồ Chí Minh trước sau vẫn là Nguyễn Ái Quốc= một người yêu nước. Năm 1960, vào lúc thịnh thời của chủ nghĩa xã hội, trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh đã viết: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế Thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Như vậy, Cụ Hồ đã nói rõ về con đường cách mạng của mình là từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó, trả lời câu hỏi Cụ Hồ là ai, phải nhận thức được sứ mệnh kép đó, chứ không nên tách bạch một cách cực đoan, siêu hình: hoặc chỉ là người này (theo chủ nghĩa dân tộc) hoặc chỉ là người kia (theo chủ nghĩa quốc tế), chỉ là người mácxit hay chỉ là người theo đạo Khổng. Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa, nên không thể quy bộ mặt tinh thần của ông vào một dạng đơn nhất nào. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó, vẫn cần thiết phải xác định đâu là mặt chủ thể trong nhân cách của Hồ Chí Minh.
Là người nô lệ mất nước, ra đi tim đường cứu nước, khát vọng cháy bỏng mà chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành mang theo là khát vọng giải phóng dân tộc và canh tân đất nước. Sau này, Hồ Chí Minh đã nói một câu thống thiết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là lo làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Yêu nước đã trở thành lẽ sống, thành tiêu chuẩn chân lý để ông xét đoán con người và việc đời. Trước sự phân liệt của Đảng Xã hội ở Đại hội Tours, có người hỏi: anh sẽ bỏ phiếu cho Quốc tế nào? -Thế Quốc tế nào bênh vực các dân tộc thuộc địa? Được trả lời là Quốc tế 3, anh quyết định bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế 3. Đó không phải là một quyết định cảm tính, mà là theo lý tưởng, theo mục tiêu cứu nước của anh. Vì sao có thể nói như vậy?
Trong 10 năm đầu, Nguyễn Tất Thành đã đi khắp thế giới, hướng đến mọi chân trời để tìm đường thực hiện lý tưởng, nhưng không có bàn tay thân thiện nào chìa ra với anh, vì vào hai thập niên đầu thế kỷ XX, vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa vẫn còn là một vấn đề quá mới, quá lớn đối với thế giới, ngay Mác và Enghen trước đó cũng chưa đưa ra được câu trả lời thật rõ ràng, còn các Đảng Xã hội Quốc tế 2 lại chưa vượt qua được tâm lý dân tộc hẹp hòi, vì lợi ích quốc gia, họ vẫn ủng hộ chính sách thuộc địa của nhà nước tư bản. Mặt khác, cũng do cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa chưa phát triển mạnh mẽ, thực tiễn thời đại chưa hé ra được lời giải đáp rõ ràng.
Chỉ sau thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga, với sự thành lập Quốc tế 3 và Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin được công bố, tiếp theo là Đại hội Ba-cu, nêu cao tinh thần đoàn kết anh em giữa các dân tộc phương Đông với giai cấp vô sản phương Tây, rồi cùng với kinh nghiệm thực tiễn hoạt động và đấu tranh của bản thân, Nguyễn Ái Quốc mới dần dần đi tới được nhận thức rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[6]. Do đó, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa quốc tế.
Tuy nhiên, trong cái song đề đó, vẫn phải thấy mặt chính, mặt chủ thể của nó, đó là mặt nào? Có người nêu thắc mắc: tại sao Nguyễn Ái Quốc lúc nào cũng chỉ đề cập đến vấn đề thuộc địa mà ít hoặc không đề cập đến những vấn đề nóng bỏng khác trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ, vậy ông là người cộng sản theo chủ nghĩa quốc tế hay thuần túy chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc?
Thử hỏi, một người dân mất nước, đang đi tìm đường cứu nước làm sao lại không nói nhiều về vấn đề thuộc địa khi từng ngày, từng giờ chủ nghĩa thực dân đang gieo tai họa, đau khổ lên cuộc sống của đồng bào mình, tại sao lại không đề cao chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, vốn là “động lực vĩ đại và duy nhất” của họ?
Hãy nghe ý kiến của một người cộng sản phương Tây, ông Ch. Fourniau: “Vấn đề duy nhất đặt ra là cần hiểu rõ tại sao và như thế nào mà một người dân thuộc địa tất nhiên phải theo chủ nghĩa dân tộc? và tại sao lại tìm được ở chủ nghĩa cộng sản như là con đường duy nhất để thực hiện độc lập cho Tổ quốc mình?”[7]Tất nhiên, chủ nghĩa dân tộc và “dân tộc chủ nghĩa” là hai khái niệm khác nhau. J. Jaurès - lãnh tụ hàng đầu của Đảng Xã hội Pháp, từng nói đại ý: Một ít chủ nghĩa yêu nước thì đưa ta xa rời chủ nghĩa quốc tế, rất nhiều chủ nghĩa yêu nước thì đưa ta vào trung tâm của chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh chinh là biểu tượng cao đẹp của tinh thần đó.
b. Hồ Chí Minh đồng thời là một chiến sĩ quốc tế trong sáng
Từ người yêu nước trở thành người cộng sản, được tiếp nhận phương pháp làm việc biện chứng, trí tuệ của Nguyễn Ái Quốc được nâng cao thêm, tầm nhìn thời đại được mở rộng hơn, bạn bè, đồng chí trở nên đông đảo hơn, sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế cũng ngày càng to lớn và hiệu quả hơn, triển vọng thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng của Việt Nam cũng trở nên sáng sủa hơn.
Sau khi trở thành người cộng sản, cùng với các thành viên khác gốc thuộc địa, Nguyễn Aí Quốc đã kiến nghị với Đảng Cộng sản Pháp lập ra Ban nghiên cứu Thuộc địa, xuất bản báo Le Paria, tham gia sáng lập Hội liên hiệp Thuộc địa, kiến nghị với báo L’Humanité mở chuyên mục thường xuyên về vấn đề thuộc địa. Tên tuổi Nguyễn Áí Quốc trên các bài báo dần dần trở nên quen thuộc với các dân tộc bị áp bức đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Nguyễn Áí Quốc trở thành người cộng sản đồng thời cũng trở thành một chiến sĩ quốc tế chân chính. Ông không chỉ quan tâm đến số phận các dân tộc Đông Dương mà còn quan tâm tới số phận của tất cả những “người cùng khổ” trên trái đất: ủng hộ nền độc lập của nhân dân Airơlen, bênh vực quyền lợi của người Mỹ da đen, lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân gây ra ở Đahômây, Angiêri, Mađagaxca,…
Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc là người có công lớn trong việc đấu tranh, bảo vệ, phát triển và hiện thực hoá học thuyết Lênin về cách mạng thuộc địa bằng thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tôc của Việt Nam và thắng lợi của phong trào giải phóng dân tôc trên thế giới trong thế kỷ XX.
Chính Đảng Cộng sản Pháp đã đánh giá rất cao những cống hiến của Nguyễn Ái Quốc vào đường lối của Đảng Pháp trong vấn đề thuộc địa: “Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng vào việc hình thành truyền thống chống chủ nghĩa thực dân, một truyền thống làm vẻ vang cho Đảng Cộng sản Pháp…Vậy thì hẳn rằng Người phải được coi là một trong những người thầy của Đảng Cộng sản Pháp về những vấn đề thuộc địa”[8].
3. Hồ Chí Minh phải chăng là một người xã hội dân chủ?
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người yêu nước và chiến sĩ quốc tế, điều đó không ai có thể phủ nhận, nhưng liệu ông có phải là người xã hội dân chủ?
Hiện nay, khi mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ Thụy Điển đang được ca ngợi, có một số người lại cho rằng Hồ Chí Minh không phải là cộng sản, mà về thực chất ông là người xã hội dân chủ từ trong gốc rễ!
a. Trước hết, cần nhìn lại xem có khi nào Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh phủ nhận danh hiệu người cộng sản của mình không?
Trong gần 50 năm làm người cộng sản, khi thuận lợi, lúc khó khăn, dù chi là người thợ ảnh bình thường hay đã là vị chủ tịch nước, khi bị giam hãm chốn ngục tù hay đã lên tới tuyệt đỉnh vinh quang,…Hồ Chí Minh lúc nào cũng tỏ rõ là người cộng sản thuỷ chung, thắng không kiêu, khó không nản, chưa từng thấy khi nào ông phủ nhận danh hiệu cộng sản của mình.
Tháng 8 năm 1944, được Trương Phát Khuê trả lại tự do sau hơn một năm cầm tù, trước khi rời Liễu Châu, Hồ Chí Minh nói thẳng với Trương: “Tôi là một người cộng sản, nhưng điều tôi quan tâm hiện nay là Tự do, Độc lập của Việt Nam chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản. Tôi có một lời đảm bảo đặc biệt với ông rằng: chủ nghĩa cộng sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới”[9].
Giữa năm 1946, ở Paris, một nhà báo cánh hữu muốn làm giảm thiện cảm của những người Pháp không ưa chủ nghĩa cộng sản đối với Hồ Chí Minh, đã đưa ra một câu hỏi: “Thưa Chủ tịch, Ngài có phải là cộng sản không?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh bình thản đi tới lẵng hoa bày trên bàn, rút ra từng bông lần lượt đem tặng cho những người có mặt, trước hết là cho chị em phụ nữ, và nói rằng: “Tôi là người cộng sản như thế này này”(Je suis communiste comme ça!). Hồ Chí Minh hiểu thâm ý của nhà báo Pháp khi đưa ra câu hỏi không thân thiện nói trên, nghĩa là muốn mượn hình ảnh người cộng sản đang bị bêu xấu trong các tấm áp phich xuất hiện trên đường phố Paris thời bấy giờ để hạ uy tín của Hồ Chí Minh. Nhưng cử chỉ văn hoá trang nhã, lịch thiệp của ông đã cho các quan khách thấy hình ảnh một người cộng sản khác- một người cộng sản Việt Nam lịch thiệp, nhân ái, nhân văn.
Trước khi qua đời, Người đã dặn lại trong Di Chúc một điều có liên quan đến trách nhiệm đảng viên cộng sản của mình: “Đảng ta là đảng cầm quyền,…phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Hồ Chí Minh đi theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng hiểu rất rõ việc thực hiện lý tưởng cộng sản là một quá trình lịch sử lâu dài, chỉ khi nào đạt tới trình độ phát triển rất cao về kinh tế, văn hóa, xã hội và con người mới có điều kiện thực hiện. Đối với Việt Nam, Người khẳng định lý tưởng đó còn quá xa, chưa thể thực hiện được trong vòng 50 năm tới; còn đối với thế giới, thì Người cũng nói khi trả lời các nhà báo Pháp năm 1946 tại Paris, qua một sự so sánh: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác. Cách đây 2000 năm, Đức chúa Giêxu đã nói là chúng ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được. Còn đến bao giờ chủ nghĩa Các Mác thực hiện thì tôi không thể trả lời được”.[10] Như đã thấy: Hồ Chí Minh là một nhà chính trị tỉnh táo và trung thực.
b. Vậy Hồ Chí Minh là ai?
Cần thấy rằng con đường cách mạng của Nguyễn Tất Thành khi ở Pháp đã phát triển qua nhiều chặng. Khi mới chân ướt chân ráo tới Paris cuối năm 1911, trung thành với chiến lược canh tân của Phan Châu Trinh (có thể có sự gợi ý và giúp đỡ của cụ Phan), anh Thành đã viết đơn xin vào Trường Thuộc địa với hy vọng tranh thủ nâng cao học vấn để trở về giúp đồng bào. Năm 1919, cùng với Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, anh đưa Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Hòa bình Versailles, thí điểm dùng luật pháp tư sản và biện pháp kiến nghị hòa bình để đòi các quyền dân chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam. Chắc không ai cho anh là người theo chủ nghĩa cải lương!
Trước khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã từng tham gia Đảng Xã hội Pháp Quốc Tế 2. Dù đã có cuộc chia tay ở Đại hội Tours, ông vẫn duy trì quan hệ tốt đẹp với nhiều lãnh tụ và đảng viên Xã hội - những người một thời đã dìu dắt, giúp đỡ ông trong buổi đầu chập chững khi ông mới bước vào hoạt động chính trị trên đất Pháp. Chắc cũng không ai vì điều này mà cho ông là người xã hội dân chủ từ gốc rễ?
Hay là, do cách ứng xử ôn hòa của ông: biết tiến biết lui, biết liên minh, đối thoại, kiên trì giải pháp hòa bình trong nhiều vấn đề quốc gia và quốc tế, mà có thể khiến người ta nhìn nhận ông như là một người xã hội dân chủ chăng?
Giải đáp vấn đề này, cần nhắc lại một nguyên lý đơn giản: Chủ nghĩa Mác-Lênin, cũng như mọi chủ thuyết chính trị hay tôn giáo khác, như Phật giáo, Nho giáo khi được du nhập vào Việt Nam, ít nhiều cũng bị khúc xạ bởi truyền thống văn hoá, tư tưởng, đạo đức, lối sống ,…của dân tộc Việt Nam - một dân tộc có truyền thống nghìn năm văn hiến.
Gia nhập hàng ngũ mácxít, đương nhiên Nguyễn Ái Quốc chấp nhận học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác. Nhưng xuất phát từ thực tế xã hội và văn hoá truyền thống Việt Nam, ông không coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất, càng không tuyệt đối hoá nó, mà có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế Việt Nam. Lý luận Mác-Lênin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Nguyễn Ái Quốc lại cho rằng: “Cuộc đấu tranh giai cấp (ở Việt Nam) không diễn ra giống như ở phương Tây”.“Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…Người ta không thể làm gì được cho người An Nam nếu như không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống xã hội của họ”[11]. Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh đã có lần phê phán những biểu hiện giáo điều, tả khuynh của một số người mới từ nước ngoài về: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”[12]. “Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc”[13]. Về chính quyền, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ trương thành lập nhà nước dân chủ cộng hòa, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Là người cộng sản, đương nhiên về nguyên tắc, Hồ Chí Minh thừa nhận học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhưng khi Nguyễn Ái Quốc bước vào hoạt động chính trị đầu thập niên 20 thế kỷ trước, thì giai cấp công nhân Việt Nam mới đang trên đường hình thành, số lượng còn nhỏ bé, càng chưa thể có giai cấp công nhân công nghiệp và cũng chưa thực sự xuất hiện trên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị. Khi đó, Nguyễn Ái Quốc đã từng viết một số bài về phong trào công nhân Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ,…mà chưa có điều kiện bàn nhiều về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam khi nó chưa thật sự trưởng thành. Từ sau cách mạng tháng Tám, rồi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, thì Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”[14].
Những điều trình bày trên cho thấy Hồ Chí Minh hoàn toàn không có gì giống với các quan điểm cơ bản của chủ nghia xã hội dân chủ. Ông không phủ nhận đấu tranh giai cấp để đi vào con đường thoả hiệp với kẻ thù ; không từ bỏ con đường đấu tranh cách mạng để chấp nhận những cải cách bố thí nhỏ giọt của đế quốc, thực dân ; càng không tin rằng vận mệnh của Tổ quốc, tự do của nhân dân có thể giành lại chỉ bằng con đường đấu tranh nghị trường, v.v. vốn là những quan điểm đặc trưng của những người xã hội dân chủ. Chính vì bất mãn với thái độ của các lãnh tụ Đảng Xã hội Pháp trong vấn đề thuộc địa: “Đề ra những luận cương dài dằng dặc và thông qua những nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng”[15], nên Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc Tế 3, trở thành người chiến sĩ quốc tế nồng nhiệt, đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập của dân tộc mình và cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Đó là so sánh trên những điều thuộc về nguyên tắc, còn cung bực uyển chuyển trong xử lý mỗi sự việc cụ thể là thuộc về sách lược, nó phụ thuộc vào phong cách, khí chất của mỗi con người, vào nền tảng văn hóa của họ.
Nhưng điều quan trọng không phải là lý giải xem Hồ Chí Minh là Xã hội Dân chủ hay Cộng sản, mà vấn đề cơ bản cần làm rõ: Ông là người cộng sản như thế nào? Bởi trong những lãnh tụ cộng sản, có người chuyên quyền, độc đoán, giáo điều, cơ hội “tả” khuynh,…lại cũng có những người như Antonio Gramsci, lãnh tụ Đảng Cộng sản Italia, chủ trương thay thế khái niệm “chuyên chính vô sản”(dictature du prolétariat) bằng khái niệm “bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản” (hégémonie du prolétariat), nhấn mạnh vai trò chỉ đạo của trí tuệ và đạo đức hơn là bằng quyền lực nhà nước; hoặc như Rosa Luxemburg - lãnh tụ Đảng Cộng sản Đức, bà cho rằng “chế độ tập trung dân chủ là tập trung quyền lực vào một nhóm người, còn các tổ chức khác chỉ là công cụ chấp hành của Trung Ương mà thôi”; theo bà, cải lương cũng là sản phẩm của cách mạng, lựa chọn cải lương hay bạo lực là tùy tình thế cách mạng, còn bạo lực chỉ là giải pháp cuối cùng, nó là con dao hai lưỡi, rất khó sử dụng,…
Đó là nói những lãnh tụ cộng sản chưa cầm quyền. Hồ Chí Minh là một lãnh tụ đã cầm quyền suốt 24 năm, nhưng trước sau vẫn nhất quán là người cộng sản yêu nước, thương dân, luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và dân tộc lên trên lợi ích giai cấp và bộ phận, suốt đời tận tụy, khắc khổ nêu tấm gương về người lãnh đạo - người đày tớ thật trung thành của nhân dân; trong sạch, liêm khiết, đi tiên phong đấu tranh chống hủ bại: tham ô, lãng phi, quan liêu trong điều kiện cầm quyền. Hồ Chí Minh là biểu tượng của người cộng sản cầm quyền theo chính trị “vương đạo”: lãnh đạo bằng thuyết phục và nêu gương, luôn nêu cao trí tuệ, đạo đức, dân chủ, coi dân là chủ, lấy lợi ích và nguyện vọng của dân làm gốc. Cụ là người rất “trí thức” nên biết quý trọng trí thức, tin dùng người tài, không gợn một chút “kiêu ngạo cộng sản” nào. Cụ thường nói: “Cách mạng rất cần trí thức và thực ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức…Không có trí thức tham gia, công việc của cách mạng khó khăn thêm nhiều”[16]. Nhân cách của Cụ tỏa ra sức hấp dẫn đặc biệt đối với trí thức thuộc nhiều xu hướng, cả trong Nam ngoài Bắc lẫn trí thức Việt kiều, lôi cuốn được hầu hết những trí thức lớn của đất nước đi vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc; ai chưa kịp đến với Cụ thì cũng không khi nào chống lại Cụ cả. Đó là “chìa khóa” đã giúp Hồ Chí Minh thành công. Học tập và làm theo Hồ Chí Minh là phải phấn đấu thực hiện bằng được những điều đó. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng Hồ Chí Minh lại là một minh chứng hùng hồn về vai trò của vĩ nhân trong lịch sử. Không có Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khó có thể sớm giành được bá quyền lãnh đạo của mình ngay từ sau năm 1945.
Tuy nhiên, cũng không thể quy những phẩm chất nói trên của Hồ Chí Minh chỉ do ông là môn đồ của Khổng giáo. Không ai phủ nhận: xuất thân từ một gia đình nhà nho, từ nhỏ Nguyễn Tất Thành đã thấm nhuần nhiều mệnh đề Nho giáo có giá trị chỉ đạo nhận thức thế giới và xử lý các vấn đề xã hội-nhân sinh, (ví như đạo “Trung Thứ”của Khổng-Mạnh: suy từ lòng mình để hiểu được lòng người, làm chính trị như thế có thể đạt tới điều “nhân”). Nhưng ảnh hưởng của Khổng giáo chỉ là một phần thôi, cái gốc làm nên nhân cách chính trị Hồ Chí Minh chính là văn hóa Việt Nam, mà hạt nhân của nó là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân ái và chủ nghĩa cộng đồng Việt Nam - được hình thành lâu đời từ trong quá trình dựng nước và giữ nước.
c. Hồ Chí Minh không phải là người cộng sản giáo điều mà là người cộng sản nhân văn, có tư duy độc lập, sáng tạo, một nhà chính trị có đầu óc thực tế.
Chỉ mới hơn một năm sống ở Maxkva, Nguyễn Áí Quốc đã đưa ra một luận điểm mà nhiều nhà cách mạng thế giới phải suy nghĩ: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết học nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào?-Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gi? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”[17] - (một phản ứng rất tinh, rất sớm với thuyết “Dĩ Âu vi trung” đang thịnh hành ở châu Âu lúc bấy giờ).
Nguyễn Ái Quốc đã xuất phát từ truyền thống văn hoá Việt Nam để nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác. Ông là người cộng sản đầu tiên nhận ra và đánh giá cao tiềm lực của cách mạng thuộc địa ở Phương Đông. Trong lúc các đảng Cộng sản theo Quốc Tế 3 cho rằng: vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể được giải quyết khi nào cách mạng vô sản giành được thắng lợi ở phương Tây. Cả Mác - Enghen, rồi Lênin cũng chưa nghĩ đến khả năng các dân tộc thuộc địa có thể tự giải phóng mình ngay giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.
Thế mà Nguyễn Ái Quốc lại “cả gan” đưa ra một luận điểm trái ngược, “phi kinh điển”, so với các quan niệm trên! Từ sự phân tích những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội…của châu Á (chế độ ruộng công, thuyết bình đẳng về tài sản, chế độ giáo dục và lao động cưỡng bức đối với người lớn, chế độ phúc lợi cho người già, tư tưởng “dân vi quý”, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám,…), Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định: “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á hơn là ở châu Âu”, nghĩa là cách mạng thuộc địa theo đường lối vô sản có thể nổ ra ở châu Á, nếu “chúng ta có nhiệt tình tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và thực tâm muốn giúp đỡ những người lao động lật đổ ách của những kẻ bóc lột” thì họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ “và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc” họ còn “có thể giúp đỡ những người anh em ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[18]. Đó quả thật là một luận điểm táo bạo, mới mẻ, lạ lùng nữa, trước đó chưa có ai nhìn ra và chưa ai dám khẳng định mạnh mẽ như thế !
Nhìn vào những đặc điểm của văn hoá chính trị Hồ Chí Minh, chúng ta đều nhận thấy đó chính là sản phẩm của văn hoá chính trị Việt Nam, phản ánh những giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, thông qua Hồ Chí Minh, cũng được lọc qua hệ giá trị đó. Khi Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tinh, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được” – thì đó chỉ là mượn danh nghĩa Mác-Lênin để truyền đạt tinh thần nhân văn - nhân nghĩa của văn hóa Việt Nam mà thôi!
III. Kết luận
Nêu lại luận đề “Cụ Hồ là ai” để trao đổi, chúng tôi chỉ muốn góp thêm một vài ý kiến để cùng tham khảo, vì hiểu rằng Hồ Chí Minh dù là dân tộc hay quốc tế, cộng hòa hay cộng sản, xã hội dân chủ hay Khổng giáo,…đối với các học giả nói trên, đều không quan trọng. Mỗi người từ chỗ đứng của mình, rọi một cái nhìn để giúp hiểu được tính đa dạng, phong phú cuả một vĩ nhân. Vĩ nhân nào cũng đều là sản phẩm của những điều kiện lịch sử- xã hội nhất định, sở dĩ họ là vĩ nhân vì họ đã vượt lên được những hạn chế của hoàn cảnh để trở thành người đi tiên phong trong thời đại của mình. Ở một vĩ nhân như Hồ Chí Minh lại càng như vậy. Trên hành trình 30 năm tìm đường, Cụ đã đến nhiều nước, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, đã tìm hiểu nhiều chủ thuyết, tự coi mình là học trò nhỏ của nhiều ông thày lớn, nhưng Cụ biết chọn lọc để chỉ học lấy những “cái cần thiết cho chúng ta”, phục vụ cho “con đường giải phóng chúng ta”[19] phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc, chứ không hề “tiếp thu cả gói” một cách giáo điều. Trong những hoàn cảnh bị o ép khắc nghiệt, Cụ vẫn giữ được bản lĩnh, bản sắc của một nhà chính trị tầm vóc, không bị bào mòn, hòa tan, không đầu hàng, khuất phục. Cụ đã nêu tấm gương bất khuất của một dân tộc nhỏ trước những cường quốc lớn, ngay cả trong vấn đề tiếp nhận văn hóa và tư tưởng.
Vậy cuối cùng, Cụ Hồ là ai? Theo Voltaire, “nhà chính trị thực sự xứng đáng với tên gọi này là người “biết chơi” và dần dà là người chiến thắng”. Theo tôi, Cụ Hồ là nhà chính trị “biết chơi”, biết khéo tận dụng mọi cơ hội và phương tiện để thực hiện mục tiêu đấu tranh của dân tộc. Cụ là người chiến thắng, vì nền tảng văn hóa của Cụ sâu rộng, lý tưởng của Cụ cao cả, phẩm cách của Cụ trong sáng, phương pháp tư duy của Cụ uyển chuyển, biết linh hoạt ứng biến trước mọi hoàn cảnh, như Cụ thường nói “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, khi “tình hình, nhiệm vụ đã thay đổi,… chính sách và khẩu hiệu cũng phải thay đổi cho hợp với tình hình mới”[20].Vì vậy, Cụ được thừa nhận là biểu tượng cho khát vọng Độc lập, Tự do, Lương tâm và Trí tuệ của các dân tộc bị áp bức; được Tạp chí Time của Mỹ tổ chức bầu chọn vào danh sách 20 nhà lãnh đạo có uy tín hàng đầu trong tổng số 100 nhân vật được bầu chọn là những người nổi tiếng nhất thế giới trong thế kỷ XX[21]. Về phần Cụ, sứ mệnh đã hoàn thành. Trong 80 năm mất nước, bị nô lệ, có biết bao cuộc đấu tranh anh hùng đã diễn ra, song tất cả đều thất bại; với Cụ, ta đã có “một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất”; còn “dân chủ, giàu mạnh và góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới” sẽ được thực hiện ra sao, đó là trách nhiệm của thế hệ lãnh đạo hôm nay, của những người được coi là kế tục Cụ; nhưng để được như vậy, không chỉ nhân danh Cụ mà cần ra sức học tập, thành tâm noi theo Cụ, cả về Tâm, Đức, Trí và Hành ./.
Chú thích
[1] Thu Trang-Gaspard: Hô Chi Minh à Paris (1917-1923). Preface de Ph. Devillers, p.13.
[2] Alain Ruscio: Nguyen Ai Quoc-Ho ChiMinh : Portrait d’un “Bolchevik jaune”, Revue Communisme No 28, 4 me Trimestre 1990.
[3].Bài nói chuyện của Pierre Brocheux tại Toronto-Canada ngày 29-10-2003 về cuốn sách của ông: “Viêt Nam expose and New biography of Ho Chi Minh” .
[4] David Halberstam: “Ho”, Random House, New York, 1971.
[5] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t. 4, tr. 458
[6] Luận đè này đến năm 1959 mới được Hồ Chí Minh diễn đạt thành văn, nhưng nó đã là sản phẩm tư duy của Nguyễn Ái Quốc được hình thành từ những điều kiện lịch sử khách quan của những năm 20 TK XX. Cũng có thể xem đó là sự lựa chọn của lịch sử.
[7] “Một nhà yêu nước và một nhà cách mạng mẫu mực”, trong Ho Chi Minh, notre camarade, Ed. Sociales Paris, 1970, p. 21.
[8] Ch. Fourniau : Ho Chi Minh, notre camarade, Ed. Sociales, Paris, 1970, tr. 31.
[9] Hồi ký của Trương Phát Khuê, đăng trên Tuần báo Liên hợp tạp chí ,Hồng Kông, 1962.
[10] Hồ Chí Minh Toàn tập, t,4, tr. 272.
[11] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t. 1, tr. 464, 467.
[12] HCM Toàn tập, t.5, tr.272.
[13] XYZ: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ban Huấn luyện TƯ xb 1949. (Chưa có trong HCM Toàn tâp xb lần 2).
[14] Hồ Chí Minh Toàn Tập, sdd, t.6,tr. 458.
[15] Hồ Chí Minh Toàn Tập ,sdd, t.1,tr. 281.
[16] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t.7, tr. 33 và t.5, tr.235 .
[17] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t. 1, tr. 465.
[18] Hồ Chí Minh Toàn Tập, sdd , t.1, tr.36.
[19] Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, HCM Toàn Tập, t. 10, tr. 127.
[20] Hồ Chí Minh Toàn Tập, t.7, tr. 315.
[21] Chuẩn bị cho thời điểm kết thúc thế kỷ XX, tạo chí Time đã phối hợp với hãng truyền hình CBS, đưa ra bảy triệu phiếu bầu, gửi đi khắp các nước, để bầu chọn lấy 100 nhân vật được coi là có ảnh hưởng lớn nhất, thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong thế kỷ XX. Số cuối tháng 12-1999, tạp chí Time đã công bố danh sách 100 nhân vật đó. Hồ Chí Minh nằm trong số 20 nhà lãnh đạo có uy tín lớn nhất, bên cạnh V.I.Lênin, M.Gandhi, W. Churchill, A. Khomeney, N. Mandela cùng nhiều nhân vật nổi danh khác.
Nguồn viet-studies
Trở về trang chính
Dạy và học BlogtiengViet
CÂY LƯƠNG THỰC; FOOD CROPS
Dạy và học ĐHNLHCM
Gia đình nông nghiệp
NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC