Phan Hoàng
http://vietimes.com.vn/ Thứ tư, 12/11/2008
Sáng ngày 7.11.2008, tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch ở TP.HCM đã diễn ra lễ kỷ niệm 40 năm ngày mất của bác sĩ anh hùng Phạm Ngọc Thạch trong niềm xúc động của nhiều đồng nghiệp và các thế hệ học trò gần gũi với ông. Nhà trí thức lớn đã ngã xuống như một vị tướng trên chiến trường vào một chiều mùa đông ở rừng biên giới Tây Nam trong niềm tiếc thương của nhân dân cả nước lẫn bạn bè quốc tế. Ngay thời điểm ấy, trên tờ tạp chí của Hội Y học Pháp - Việt, Giáo sư thạc sĩ André Roussel đã phải thốt lên rằng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch “do tập trung được những đức tính hiếm có và quý báu, mà khi nói đến ông người ta dùng một câu rất hiếm: Đó là một người hiền vĩ đại”.
Trí thức với vận mệnh tổ quốc
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch
Lịch sử đã ghi nhận rằng, từ sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940 thất bại cho đến trước ngày Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, “trong đám lửa tàn lại nhen lên những hòn than hồng” mà chủ yếu là hoạt động yêu nước của tầng lớp học sinh, sinh viên, trí thức. Đó là nhóm ca nhạc Hoàng Mai Lưu với tiếng nhạc lời ca đầy hùng khí, là Đoàn Hùng ở Trường trung học Pétrus Ký, là bước tiến rầm rập của sinh viên từ Hà Nội về Nam trên những chiếc xe đạp để tổ chức những đêm dạ hội với các vở kịch Nợ Mê Linh, Hội nghị Diên Hồng, Hưng Đạo phá Nguyên, Đêm Lam Sơn… rồi tham gia làm báo Thanh niên của Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, dùng ngòi bút để tranh đấu. Trên cơ sở đó, phong trào yêu nước Thanh niên Tiền phong đã ra đời.
Trong Cách mạng tháng Tám, tầng lớp trí thức là lực lượng nhập cuộc rất sôi nổi tích cực. Quân Pháp tái chiếm Nam Bộ. Phần lớn trí thức Sài Gòn lục tỉnh theo tiếng gọi non sông, từ bỏ cuộc sống phố hội, dấn thân vào chốn bưng biền trong kháng chiến chín năm. Những trí thức còn kẹt lại trong thành phố, thì đa số bất hợp tác với quân xâm lược. Trong bài nói chuyện nhân dịp mừng sinh nhật 85 tuổi của bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, Giáo sư Trần Văn Giàu tâm sự rằng “trong Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chín năm, tầng lớp trí thức Sài Gòn và Nam Bộ đã tham gia rất đông đảo và bền bỉ với ý thức cao sâu, với tinh thần mãnh liệt. Người gãy gánh giữa đường rất ít. Anh chị em không phải nhất thời bị lôi cuốn theo phong trào; anh chị em là bộ phận cấu thành phong trào, trong một số trường hợp, anh chị em là chủ xướng”.
Từ trong máu lửa đấu tranh vì danh dự dân tộc đã nổi lên nhiều hình ảnh trí thức tiêu biểu của Sài Gòn và Nam Bộ, xin được kể ra một vài cái tên như: Lưu Văn Lang, Nguyễn Xuân Bái, Phan Văn Chương, Thái Văn Lung, Phạm Ngọc Thạch, Phạm Ngọc Thảo, Phạm Ngọc Thuần, Lê Đình Chi, Phạm Văn Bạch, Nguyễn Văn Hưởng, Ca Văn Thỉnh, Huỳnh Tấn Phát… Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định: “Có thể nói chắc rằng đi với Cách mạng và Kháng chiến, người trí thức gần như tuyệt nhiên không vì quyền lợi thiết thực nào. Nếu nói quyền lợi thiết thực, thì đi kháng chiến họ chỉ mất, không được gì. Thế thì “duy tâm” à? Không! Ấy là “duy” danh dự dân tộc, “duy” lý tưởng độc lập tự do. Xưa nay, dám đi tù, chịu chết vì tấm áo, bát cơm, đúng là nhiều người; mà xưa nay ở đất nước Việt Nam này, dám chết vì giải phóng dân tộc, vì độc lập tự chủ, thì càng nhiều người hơn, không phải là hàng ngàn hàng vạn mà hàng triệu. Trí thức nhạy cảm ở danh dự. Cách mạng và Kháng chiến kích thích đến tột độ cái ý thức danh dự dân tộc của trí thức, được cái này thì dù phải bỏ của cải, phải xa gia đình cũng ưng”.
Thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong
Tháng 3.1945, trước sự lớn mạnh của phong trào học sinh, sinh viên và trí thức yêu nước, một nhóm các nhà tri thức tiên phong đã đứng ra thành lập phong trào Thanh niên Tiền phong tại Sài Gòn, sau đó phát triển nhanh ra khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch được cử giữ chức Bí thư Đảng đoàn kiêm Chủ tịch Hội đồng Quản trị phong trào Thanh niên Tiền phong ở Sài Gòn và Nam Kỳ. Chỉ trong vòng ba tháng đầu, số đoàn viên Thanh niên Tiền phong lên tới 1.200.000 người, riêng Sài Gòn chiếm 200.000 người..
Bên cạnh Phạm Ngọc Thạch, tham gia lãnh đạo Thanh niên Tiền phong còn có các nhà trí thức: Thái Văn Lung, Ngô Tấn Nhơn, Nguyễn Văn Thủ, Trần Bửu Kiếm, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng,… Luật sư Thái Văn Lung quê ở Thủ Đức, vốn là con của một hào phú, tốt nghiệp cử nhân luật và khoa học chính trị ở Paris. Bác sĩ Nguyễn Văn Thủ sinh ở Vĩnh Long, học trung học và đại học bên Pháp, tốt nghiệp bác sĩ nha khoa năm 1940, hai năm sau về nước. Trần Bửu Kiếm quê ở Ô Môn, Cần Thơ học trường trung học Pétrus Ký- Sài Gòn và đại học luật ở Hà Nội. Bộ ba nhóm Hoàng Mai Lưu (Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước) là những sinh viên yêu nước nổi tiếng, hưởng ứng phong trào “Xếp bút nghiên” đã rời Hà Nội về Nam bằng xe đạp, sáng tác nhạc, kịch, thơ, viết báo tham gia tranh đấu… Tất cả họ đã từ bỏ con đường danh vọng trước mắt để thực hiện nghĩa vụ của một công dân trước vận mệnh đất nước, tương lai dân tộc.
Ngày 18.8.1945, tại Vườn Ông Thượng (nay là Công viên Văn hóa TP.HCM) hơn 50.000 đoàn viên Thanh niên Tiền phong làm lễ tuyên thệ “Trung thành với Tổ quốc, chống địch đến cùng”. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã đứng trên bục cao chỉ huy biển người đồng ca bài Quốc dân hành khúc, tức Thanh niên hành khúc do chính ông sáng tác và được chỉnh sửa lời cho phù hợp với tình hình mới. Hưởng ứng lời kêu gọi của các nhà lãnh đạo cách mạng Trần Văn Giàu, Huỳnh Tấn Phát…, ngày 22.8.1945 Ban Chấp hành Thanh niên Tiền phong họp ra quyết nghị gia nhập Mặt trận Việt Minh chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Đêm 24 rạng ngày 25.8.1945, hàng chục vạn đồng bào Sài Gòn- Chợ Lớn, mà Thanh niên Tiền phong là một trong những thành phần chủ lực, đã kéo về trung tâm thành phố đấu tranh giành chính quyền.
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch bên cây đa Tân trào
Một khu rừng nguyên sinh
Phạm Ngọc Thạch sinh 7.5.1909 tại Phan Thiết, thuộc hàng “danh gia vọng tộc”, ông nội là quan Án sát Phạm Ngọc Quát, còn mẹ là cháu nội Tuy Lý Vương, lấy vợ người Pháp. Ông học Đại học Y Hà Nội đến năm thứ 4 thì sang Paris học tiếp. Năm 1934, ông tốt nghiệp và về nước mở phòng mạch tư chữa bệnh lao tại thành phố Sài Gòn. Năm 1936, ông trở thành hội viên duy nhất ở Đông Dương của Hội Nghiên cứu bệnh lao Pháp. Vừa chữa bệnh cho nhân dân, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch vừa tham gia phong trào yêu nước thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Ngày 2.9.1945, ông là thủ lĩnh của Thanh niên Tiền phong, Ủy viên Lâm ủy hành chính, đứng ra tuyên bố khởi nghĩa giành chính quyền đã thành công trước hàng triệu đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn mít tinh mừng nước nhà độc lập. Sau đó, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Y tế đầu tiên của Chính phủ lâm thời và là thành viên của đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán với Pháp tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt vào tháng 4.1946. Trong kháng chiến chín năm, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch trở về hoạt động ở Nam Bộ, giữ trọng trách Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Cuối năm 1953, nhận chỉ thị của Hồ Chủ tịch, ông ra chiến khu Việt Bắc. Sau Hiệp định Genève năm 1954, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch được giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế kiêm Viện trưởng đầu tiên của Viện Chống lao trung ương và là Ủy viên Ban Kỹ thuật Hội Bài trừ lao quốc tế. Ông đã dược chính phủ tặng danh hiệu Anh hùng Lao động do những đóng góp to lớn trong lĩnh vực y tế.
Nhà văn Nguyễn Hải Trừng đã viết: “Anh Phạm Ngọc Thạch như một dãy núi lớn, một khu rừng nguyên sinh có cây ngàn tuổi, có hoa bốn mùa phong phú vô cùng về hình thể, màu sắc và hương thơm tỏa ngát khỏi biên giới một quốc gia”. Với tư cách là thầy thuốc, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch hết lòng vì bệnh nhân. Trước Cách mạng tháng Tám, phòng mạch của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nằm trên đường Arras (nay là Cống Quỳnh thuộc quận 1), cùng đường phố với phòng mạch của bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng thời đó. Với một tinh thần chung vì người bệnh, nhất là đối với bệnh nhân nghèo, phòng mạch của cả hai bác sĩ được sự tín nhiệm lớn của đông đảo đồng bào.
Trong dòng hồi ức của mình vào sáng ngày 7.11.2008, dược sĩ anh hùng Nguyễn Duy Cương- nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế cũng đã nói: “Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là một thầy thuốc nhân hậu, rất bình dân. Nửa đêm có người bệnh gõ cửa đánh thức, ông vẫn lái xe đến tận các khu nhà nghèo để khám và chữa bệnh cho người lao động”.
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch cũng là người hết sức tận tụy với đồng nghiệp. Năm 1953, trên đường ra Việt Bắc, ông ghé thăm hai bác sĩ Tôn Thất Tùng và Hồ Đắc Di. Gặp lúc bác sĩ Hồ Đắc Di đang bệnh nặng, dù công việc rất gấp, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch vẫn xin phép cấp trên nán lại một tuần để chữa bệnh và chăm sóc đồng nghiệp. Giáo sư Hồ Đắc Di nhớ lại với một sự xúc động sâu xa: “Tôi khâm phục tinh thần tận tụy phục vụ người bệnh của anh. Ngày đêm anh nằm cạnh giường tôi, nâng giấc tôi như một người mẹ hiền. Tôi mang ơn anh đã cứu sống tôi!”. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đọng lại trong ký ức nhiều bệnh nhân tại Viện Chống lao trung ương với hình ảnh đẹp đẽ thân thuộc: người thầy thuốc trong chiếc áo chòang trắng cùng chiếc ống nghe bên cổ, ân cần thăm hỏi từng giường bệnh. Không ít lần ông đã tự tiếp máu mình cho bệnh nhân khi gặp những ca cấp cứu nguy kịch. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là hiện thân sống động nhất của y đức “Lương y như từ mẫu”.
Một người hiền vĩ đại
Phạm Ngọc Thạch là một nhà bác học lớn, có nhiều công trình nghiên cứu y học được đánh giá cao trong và ngoài nước. Với hơn 80 bài nghiên cứu về bệnh lao được đăng tải trên nhiều tạp chí khoa học có uy tín tại nhiều quốc gia, cùng với những thực nghiệm thành công của mình, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch được xem như một trong những chuyên gia lớn về bệnh lao của thế giới. Từ năm 1957, ông đã cùng đồng nghiệp nghiên cứu và phát minh nhiều phương pháp phòng chống và điều trị bệnh lao. Tư năm 1962, việc tiêm phòng lao ở nước ta được tiến hành rộng rãi và thu được kết quả to lớn. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch cũng là người đầu tiên đề ra phương pháp dùng kích sinh chất Filatov điều trị bệnh lao và kết hợp Đông - Tây y để tiêm thuốc vào vùng huyệt chữa lao và bệnh phổi. Sau đó, nhờ chủng vi trùng Suptilite mang từ miền Nam ra Bắc, sau 10 năm trời nghiền ngẫm, ông đã thành công trong việc dùng Suptilite điều trị bệnh lao, bệnh phổi cũng như một vài bệnh nhiễm trùng khác. Những năm đầu thập niên 1990, khi nhìn lại công trạng người đi trước, Giáo sư bác sĩ Hoàng Minh khẳng định: “Đối với ngành lao và bệnh phổi, những nghiên cứu của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch trong việc áp dụng miễn dịch học chữa ung thư, điều trị lao, giải quyết các bệnh phổi mạn tính đã được các đồng nghiệp, học trò của ông thừa kế một cách sáng tạo…”.
Là một bác học uyên thâm, nhưng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch rất chịu khó học hỏi từ đồng nghiệp cho tới ông lang, bà mế những kinh nghiệm chữa trị phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Ông cũng đọc kỹ từng bài báo nhỏ của đồng nghiệp, học trò về một vấn đề mới cho tới những công trình lớn của Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh, Claude Bernard…
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch còn là lãnh đạo có uy tín. Với cương vị Bộ trưởng Bộ Y tế đầu tiên của nước ta, ông đã có công lớn trong việc tổ chức xây dựng mạng lưới y tế nhân dân từ địa phương tới trung ương trong kháng chiến. Giữa khói lửa đạn bom, hình ảnh Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch vai mang ba lô, đầu trần, chân đất có mặt trên mọi chiến trường đã gây xúc động mạnh. Ông quên ăn, quên ngủ để cứu chữa cho thương bệnh binh và đồng bào.
Con đường mang tên bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ở TP.Hồ Chí Minh
Quê hương Nam Bộ luôn là nỗi nhớ, niềm thôi thúc mạnh mẽ trong trái tim của ông. Và cũng chính quê Nam Bộ cũng chứng kiến sự hy sinh anh dũng của người con thân yêu ngã xuống trên chiến trường sau một cơn sốt rét ác tính giữa lúc đang chỉ đạo nghiên cứu căn bệnh này và những vấn đề y tế cấp bách. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch vĩnh viễn ra đi vào một chiều mùa đông 7.11.1968, để lại trong lòng mọi người sự tiếc thương vô hạn. Đột ngột nghe tin buồn, Hồ Chủ tịch đã ngồi lặng đi. Nhiều đồng nghiệp, cán bộ ngành y tế đã không cầm được nước mắt...
Chỉ trong vòng 72 giờ sau, một người bạn trí thức Nam Bộ của ông là nhà điêu khắc Diệp Minh Châu đã hoàn tất bức tượng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch to gấp mười lần người thật trong một niềm rung cảm mãnh liệt, hiện đang đặt tại Viện Lao và bệnh phổi. Nghệ sĩ Diệp Minh Châu thổ lộ: “Tôi say mê tài năng và có duyên làm bạn với nhiều tài năng. Không chỉ với nghệ sĩ mà cả giới khoa học. Cuộc đời giản dị, cao đẹp và tinh thần xả thân của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã chinh phục mạnh mẽ trái tim tôi, giúp tôi tạo nên tác phẩm ưng ý về ông”. Đối với bạn bè thế giới thì bác sĩ Phạm Ngọc Thạch “do tập trung được những đức tính hiếm có và quý báu, mà khi nói đến ông người ta dùng một câu rất hiếm: Đó là một người hiền vĩ đại (Giáo sư thạc sĩ André Roussel viết trên tạp chí của Hội Y học Pháp - Việt, 3.1969). Và theo Madeleine Riffeau trên báo Nhân đạo số ra 13.12. 1968, nhà bác học lớn Phạm Ngọc Thạch đã vĩnh viễn ra đi nhưng hình ảnh ông vẫn còn mãi “trong làn nước trong xanh của hàng vạn giếng khơi mà ông đã cho đào, trong các tiếng khóc chào đời của các bé sơ sinh, trong những buồng phổi khỏe mạnh của nhân dân…”.
Tại mảnh đất Sài Gòn đã dựng nên tên tuổi và sự nghiệp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, ngay sau ngày đất nước thống nhất tên ông đã được trân trọng chọn đặt cho một con đường lớn ở trung tâm thành phố và một bệnh viện chống lao. Ngày 10.10.2008 vừa qua, một ngôi trường Đại học y khoa mang tên Phạm Ngọc Thạch cũng đã được khai giảng niên khoá đầu tiên. Hình ảnh nhà trí thức lớn mãi mãi hiện diện trong lòng dân tộc.
Phan Hoàng
Việt Nam tổ quốc tôi
Thứ Năm, 13 tháng 11, 2008
Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2008
Đào Duy Từ còn mãi với non sông
Đào Duy Từ là nhà chính trị quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, bậc công thần số một của triều Nguyễn, Sự nghiệp của ông là đặc biệt to lớn đối với dân tộc và thời đại mà ông đã sống. Ông bắt đầu thi thố tài năng từ năm 53 tuổi đến năm 62 tuổi thì mất. Chỉ trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634), Đào Duy Từ đã kịp làm nên kỳ tích phi thường: Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc; Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh. Đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao.
Sau khi ông mất (1634) triều Nguyễn còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm 1735, khi Vũ Vương mất, thế tử chết, Trương Phúc Loan chuyên quyền, lòng người li tán, nhà Tây Sơn nổi lên chiếm đất Quy Nhơn, họ Trịnh lấy đất Phú Xuân, thì cơ nghiệp nhà Nguyễn mới bị xiêu đổ.
Đào Duy Từ mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Di sản của ông không chỉ là trước tác mà là triều đại. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ thường. Ngay trong trước tác của ông cũng rất trọng gắn lý luận với thực tiễn. Binh thư “Hổ trướng khu cơ” gắn với những danh tướng cầm quân lỗi lạc một thời Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến. Vũ khúc, tuồng cổ Sơn Hậu gắn với di sản văn hóa Huế lưu dấu mãi cho đến tận ngày nay. Việc sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao gắn với hệ thống chính trị tiến bộ hợp lòng dân. Ông thật xứng danh là bậc kỳ tài muôn thuở với những di sản còn mãi với non sông.
Đào Duy Từ với Lũy Thầy, Quảng Bình
Theo Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình http://www.quangbinh.gov.vn/ “Năm Canh Ngọ 1630, ông chủ xướng việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng hai công trình phòng thủ quan trọng là Lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình (1630) và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Đây là chiến lũy quan trọng, giúp chúa Nguyễn có thể phòng thủ hiệu quả trước nguy cơ tấn công của quân Trịnh.” Sách Việt Nam sử lược có viết chi tiết về việc Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến đã giúp chúa Nguyễn bày mưu định kế, luyện tập quân lính xây đồn đắp lũy để chống với quân họ Trịnh. Người ta thường gọi lũy ấy là lũy Thầy, nghĩa là lũy của Đào Duy Từ đắp ra.
Theo tài liệu của Trương Quang Nam (báo Thanh Niên) được đặng lại bởi trang lịch sử Việt Nam http://lichsuvietnam.info/. Năm 1992, Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao đã ra quyết định công nhận di tích lịch sử đối với hệ thống Lũy Thầy tại thị xã Đồng Hới và huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình với nhiều giá trị to lớn. Tại hồ sơ lưu ở Ban Quản lý di tích - danh thắng tỉnh Quảng Bình, lũy Thầy là một hệ thống thành lũy bằng đất, đá được hình thành trong thời gian 3 năm (1630-1634) với tổng chiều dài gần 34 km gồm lũy Trường Dục, lũy Trấn Ninh (lũy Đầu Mâu) và lũy Trường Sa. Lũy Thầy là một công trình kiến trúc quân sự có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử xây dựng thành lũy ở Việt Nam, thể hiện sự kết hợp một cách khoa học giữa thành lũy, sông ngòi, hầm hào liên hoàn, hỗ trợ cho nhau. Ngoài công dụng quân sự, lũy còn có tác dụng về nông nghiệp, thủy nông, thủy lợi như ngăn gió bão, gió mùa, hạn chế cát bay. Và nhiều nét sinh hoạt văn hóa khác gắn liền...
Trong cả hệ thống, lũy Đầu Mâu thuộc làng Lệ Kỳ, xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh được cho là còn khá nguyên vẹn. Năm 1631, sau khi xây xong lũy Trường Dục, chúa Nguyễn chưa yên tâm bèn sai Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật đi Quảng Bình xem xét hình thế núi sông vùng Đông Hải để xây thêm thành lũy phòng ngự. Khảo sát xong, Đào Duy Từ tâu: Thần xem từ cửa Nhật Lệ đến núi Đầu Mâu, phía ngoài có nước khe, bùa lũy sâu rộng Nguyễn Phúc Nguyên đồng ý cho xây ngay. Bia Định Bắc Trường Thành mô tả lũy Đầu Mâu như sau: "Lũy Đầu Mâu cao 1 tượng 5 thước (tương đương 6m), phía ngoài đóng cọc gỗ lim, phía sau cọc tre, đổ đất lên 5 tầng cấp để voi ngựa có thể bước lên và di chuyển dễ dàng trên mặt lũy. Cứ cách 3-5 tượng thì xây 1 pháo đài để đặt 1 súng thần công, cứ cách 1 tượng thì đặt 1 súng phóng đá, sỏi - tất cả tạo thành một công trình phòng thủ hiểm yếu và kiên cố nhất". Lũy có chiều dài 12 km.”
Đền thờ Đào Duy Từ ở làng Hoa Trai, Tỉnh Gia, Thanh Hóa
Theo trang thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa http://www.thanhhoa.gov.vn Đào Duy Từ là người làng Hoa Trai, Ngọc Sơn, Tỉnh Gia, Thanh Hóa. Nơi đây có đền thờ của ông (xem ảnh trên). Huyện Tỉnh Gia hiện là điểm đến mới của du khách “Sự kết hợp hài hòa giữa các cảnh quan biển, đảo, đồng bằng, trung du và miền núi đã tạo cho Tĩnh Gia thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là du lịch. Ðến với Tĩnh Gia, du khách không thể không ghé thăm những địa danh nổi tiếng như: Hòn Bảng, Hòn Biện Sơn, Hòn Mê, núi Ngọc Sơn, núi Am, núi Thề Nguyền, hồ Yên Mỹ, động Trúc Lâm, nhà thờ Bùi Thị Xuân, di tích kiến trúc núi đá nghệ thuật thờ Quận công Lê Ðình Châu, nhà thờ xứ Ba Làng xây dựng năm 1893, đền thờ Lương Chí thờ Ðào Duy Từ,... Tất cả tạo thành quần thể du lịch vô cùng độc đáo, là sự tổng hoà giữa những cảnh đẹp do thiên nhiên ban tặng cùng các truyền thuyết, dấu tích lịch sử.”
Trang Du lịch Sẩm Sơn http://www.samson.vn/ giới thiệu cụm di tích Lạch Bạng có: “Chùa Đót Tiên, đền thờ Quang Trung, nhà thờ Ba Làng là một trong số nhà thờ được xây dựng sớm nhất ở Việt Nam. Trên đường về thành phố Thanh Hóa, du khách dừng lại làng Hoa Trai ( Nguyên Bình – Tĩnh Gia ) để dâng hương tại đền thờ Đào Duy Từ - một danh nhân văn hóa ở quê Thanh..”
Đền thờ Đào Duy Từ tại làng Tùng Châu, Hoài Nhơn,
Trang Hoài Nhơn Online, http://hoainhon.vn/diendan/showthread.php?t=684 , theo Cao Văn Phụng: “ Sau khi Đào Duy Từ qua đời (1634) chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đưa thi hài ông về mai táng và lập đền thờ tại làng Tùng Châu thuộc xã Hoài Thanh (Hoài Nhơn). Di tích lăng mộ Đào Duy Từ nay thuộc địa phận thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn. Năm Gia Long 4 (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được cấp 15 mẫu tự điền và 6 người trông coi phần mộ. Đến năm Minh Mệnh 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại sửa chữa lăng mộ cho ông. Trải qua thời gian và chiến tranh, lăng mộ ông bị hư hại nhiều. Lần sửa sang gần đây nhất được tiến hành năm 1999.
Di tích Nhà thờ Đào Duy Từ hiện tại thuộc thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn. Nhà thờ nằm trong khuôn viên một thửa đất hình chữ T có diện tích 1.616m2 , được xây dựng vào năm Tự Đức 12 (1859), đã trãi qua nhiều lần trùng tu. Nhà thờ có tam quan cao khoảng 6m, hai mái lợp ngói âm dương, trên có bốn chữ lớn “Quốc công từ môn” (cổng đến thờ Quốc công) ghép bằng mảnh sứ, hai bên đắp phù điêu hình hai con dơi cánh điệu, đường nét khá sắc sảo, bốn trụ góc có hình rồng uốn lượn. Qua Tam Quan có sân nhỏ hình chữ nhật, kích thước 6,9m x 7,8m. tiếp đến là bình phong đắp hình long mã lưng có hà đồ nỗi trên mặt nước, mặt sau đề bốn chữ “Bách thế bất di” (Trăm đời không thay đổi). Ở hai bên là đôi câu đối nhắc đến lai lịch Đào Duy Từ: “Ngọc sơn chung tú Bắc/ Bồng lãnh hiển danh Nam”. Cách đều bình phong 2,6m về hai bên có hai cột trụ cao 4m, trên đỉnh đắp tượng hạc đứng chầu đối xứng, phía sau là sân lớn hình chữ nhật với kích thước 15,4m x 14m. qua sân lớn đến nhà thờ được thiết kế kiểu nhà mái lá, một kiểu kiến trúc truyền thống ở Bình Định. Khám thờ bên trong có bài vị của Đào Tá Hán , Nguyễn Thị Minh (thân phụ và thân mẫu của Đào Duy Từ), Đào Duy Từ và vợ. Trên bài vị Đào Duy Từ có dòng chữ “ô Thủy tổ khảo nội tán lộc khê hầu Đào Công, tặng khai quốc công thần, đặc tiến Vinh lộc đại phu, Đông các đại học sỹ, Thái sư, nhưng thủy Trung Lương, phong Hoàng Quốc Công thần chủ” Bài vị của vợ Đào Duy Từ viết “ôThủy tổ tỉ nội tán Lộc khê hầu Hoàng Quốc Công phu nhân, Trinh thục cao thị thần chủ”. Trong nhà thờ còn có đôi câu đối nhưng nay đã sứt mòn, mờ không đọc được.
Di tích nhà thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài thuộc xã Hoài Phú, huyện Hoài Nhơn. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí và Đồng Khánh Dư Địa Chí đều chép đền thờ Hoàng Quốc Công Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài, huyện Bồng Sơn (nay là Hoài Nhơn). Trong chiến tranh nhà thờ này đã bị sụp đổ. Năm 1978 dòng họ Đào xin kinh phí của tỉnh Nghĩa Bình để xây dựng lại đền thờ trên nền cũ hiện chỉ còn lại hai trụ cổng và tấm đại tự cũng đề “Quốc Công từ môn” (giống như nhà thờ ở thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây) là dấu tích kiến trúc năm Tự Đức thứ 32 (1880) và lần trùng tu năm Khải Định thứ 1 (1861). Trong đền thờ khám thờ là bài vị Đào Duy Từ cũng ghi giống như bài vị bên nhà thờ thôn Ngọc Sơn. Ngoài ra, tại thôn Ngọc Sơn còn có lăng Đào Tá Hán. Truyền rằng khi đã làm quan ở Thuận Hóa, Đào Duy Từ cho đắp mộ phụ thân rồi tung tin rằng đã đưa hài cốt cha mẹ vào đây để phòng việc trả thù của họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Lăng mộ hiện nằm trên một quả đồi rộng. Cũng tại Ngọc Sơn hiên có một ngôi chùa nhỏ, tương truyền là nơi đi tu của bà vợ cả họ Cao.
Những di tích kể trên, theo đơn vị hành chính hiện nay, nằm ở các thôn, xã khác nhau (lăng mộ Đào Duy Từ tại thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, nhà thờ và lăng mộ Đào Tá Hán tại thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây và nhà thờ ở thôn Cự Tài, xã Hoài Phú ) nhưng tất cả vốn đều thuộc vùng đất của trại Tùng Châu xưa. Đây là những xã thôn mà hiện nay con cháu Đào Duy Từ còn rất đông đảo, đặc biệt là ở thôn Cự Tài.
Hàng năm vào ngày 17 tháng 10 (âm lịch) là ngày giỗ Đào Duy Từ, con cháu họ Đào tổ chức cúng tế rất long trọng. Theo quy ước, cứ vào dịp này con cháu dòng tộc đều nghỉ việc đồng áng trong ba ngày. Sau khi làm lễ thắp hương tại lăng mộ Đào Duy Từ (thôn Phụng Du) con cháu về họp mặt và dâng hương tại đền thờ cha mẹ và vợ chồng Đào Duy Từ ở thôn Ngọc Sơn rồi sau đó mới trở về tế lễ chính thức tại đền thờ Đào Duy Từ ở thôn Cự Tài. Ngoài ngày giỗ chính (17 tháng 10), hàng năm tại các di tích trên còn có 5 ngày lễ phụ vào dịp Đông chí, Chạp mả, Thanh minh, Trung thu và Tết Nguyên đán. Ngày giỗ Đào Duy Từ cũng là ngày con cháu phối hợp cúng tế thân phụ và thân mẫu cùng vợ của ông. Duy bà vợ cả còn có ngày riêng là 12 tháng 2 âm lịch tại chùa tu của bà ở thôn Tài lương. Giỗ bà hàng năm( gọi là tiểu chẩn) chỉ sửa cơm chay, cứ mười năm (gọi là trung chẩn) thì lễ vật có thêm đôi chim sống, một đôi gà sống cúng xong thả chim gà ra rồi con cháu thi nhau đuổi bắt, cứ 30 năm (đại chẩn) mới sửa cỗ mặn.
Có đến tận nơi mảnh đất Tùng Châu xưa mới thấy hết dấu ấn và ảnh hưởng lớn lao của Đào Duy Từ đối với vùng đất này. Không chỉ có con cháu họ Đào nơi đây tự hào về vị tổ tiên của mình mà tất cả mọi người dân nơi đây đều tự hào về ông. Cuộc đời và sự nghiệp Đào Duy Từ đã trở thành niềm tự hào chung của dân Hoài Nhơn, của nhân dân Bình Định. Cuộc hành hương đưa ta trở về mảnh đất nơi xưa Đào Duy Từ thác làm kẻ chăn trâu cho phú ông không mấy khó khăn. Từ thị trấn Bồng Sơn ruổi theo Quốc lộ 1A khoảng 7 km tới cột cây số 1138 rồi rẽ hướng tây là sẽ đến các địa chỉ cần tìm. Cỏ trên mộ ông luôn ấm hơi người, của con cháu, của bà con nơi đây, của khách thập phương. Bởi cuộc đời đầy những tình tiết ly kỳ của ông, bởi tấm lòng của ông với vùng đất quê hương thứ hai này, và bởi sự nghiệp lẫy lừng của ông với chúa Nguyễn, với nhân dân Đàng Trong vẫn sẽ còn sống mãi với thời gian.”
Đền thờ Đào Duy Từ ở làng Lạc Giao, Buôn Ma Thuột
Theo Báo Bình Định http://www.baobinhdinh.com.vn/ Trần Xuân Toàn đã giới thiệu đền thờ Đào Duy Từ ở làng Lại Giao thành phố Buôn Mê Thuột : “Đình Lạc Giao phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, được lập năm 1929, là ngôi đình làng đầu tiên của những người Việt (Kinh) từ đồng bằng lên đây lập nghiệp, thờ vị thành hoàng làng là Đào Duy Từ.
Ngôi đình ban đầu làm bằng tranh tre, năm 1932, ngôi đình được xây dựng lại bằng gạch lợp ngói theo hình chữ Môn, gồm có nhà thờ Thần Hoàng và những người có công với nước, hai nhà tả hữu hai bên dùng làm nơi hội họp mỗi khi tế lễ, phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng có bức bình phong có chạm khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn. Làng Lạc Giao hình thành bắt đầu từ những người bị tù lưu đày xa xứ, rồi những dân phiêu bạt từ các vùng đất miền Trung nghèo khó tìm nơi lập nghiệp sinh sống, rồi những công chức, thầy giáo, binh lính được bổ nhiệm lên vùng đất xa xôi Ban đầu chỉ dăm nóc nhà dọc theo con đường suối Ea Tam, xóm người Việt ấy được gọi là thôn Nam Bang. Họ làm rẫy dọc theo khu rừng già ven suối, bên cạnh một buôn của Ama Thuột. Năm 1924, họ gọi xóm người Việt di cư đến là Lạc Giao với ý nghĩa: Lạc là con Lạc cháu Hồng, Giao nghĩa là nơi bang giao Kinh – Thượng. Tên gọi Lạc Giao là lời nguyền giao ước an cư lạc nghiệp của đồng bào Kinh- Thượng, cùng chung lưng đấu cật xây dựng vùng đất mới này.
Năm 1925, làng Lạc Giao được mở rộng bao trùm cả một khu vực rộng lớn ở ngay trung tâm Buôn Ma Thuột. Tài liệu của đình Lạc Giao ghi: ông Phan Hộ, người Quảng Nam, vào Ninh Hoà (Khánh Hoà) sinh sống. Thuở ấy, lên cao nguyên Dak Lak chưa có đường, ông Phan Hộ cùng một số trai tráng đi bằng voi, ngựa xuyên rừng vài tháng mới tới vùng M'Drak rồi đến Buôn Ma Thuột trao đổi hàng hoá với người Ê Đê, thấy người dân ở đây giàu lòng mến khách, đất đai màu mỡ lại dễ làm ăn, nên ông vận động nhiều gia đình lên đây sinh sống, khai phá đất hoang để lập làng. Nỗi nhớ thương quê nhà bản quán, anh em khôn nguôi trong lòng những người đi xa quê, làm ăn xứ lạ. Từ đó họ có nhu cầu gặp gỡ, trao đổi công việc làm ăn, nhất là lễ tết có nơi cúng kiếng ông bà tổ tiên, nhắc chuyện quê hương làng xóm. Họ đã góp tiền của công sức dựng nên ngôi đình trên để thoả nỗi ước mong đó. Đình Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất cao nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ các vị tiên hiền và người có công với đất nước, nơi sinh hoạt trong những ngày lễ tết của cư dân Việt trên vùng đất mới.
Năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong cho thần hoàng của làng là Đào Duy Từ, khẳng định đây là đất của “Hoàng triều cương thổ”. Nhân vật được sắc phong Thần Hoàng là một danh nhân văn hoá, một tài năng lớn trong nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá … đặc biệt ông là người có công mở mang đất nước, xây dựng nên nhiều vùng đất mới. Hằng năm cứ đến ngày 27-10 âm lịch, nhân dân Buôn Ma Thuột lại tổ chức ngày tưởng niệm tại đình ...’’
Hoàng Kim
(Sưu tầm tổng hợp, biên soạn)
http://blog.360.yahoo.com/rss-PkY01PA5dKccD9Dsho_NMlMcLZ4VHCMw
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)