Thứ Năm, 17 tháng 1, 2008

Phan Huy Chú

Hoàng Kim
(Sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn)

Phan Huy Chú (1782 - 1840) là danh nhân văn hoá Việt Nam, nhà khoa học bách khoa thư văn sử địa nổi tiếng với tác phẩm lớn "Lịch triều hiến chương loại chí". Ông đồng thời cũng là nhà giáo, nhà thơ của triều vua Minh Mạng.

Phan Huy Chú (tên khác là Phan Huy Hạo, tên hiệu là Mai Phong), sinh năm Nhâm Dần 1782, quê gốc xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, sinh ra và lớn lên ở xã Thụy Khê, huyện Yên Sơn, Phủ Quốc Oai, nay là làng Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Ông xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng, là con trai thứ ba của Lễ bộ Thượng thư, tiến sĩ Phan Huy Ích,. Ông nội là tiến sĩ Phan Huy Cận, ông ngoại là Ngô Thì Sĩ, cha là Phan Huy Ích, bố vợ là Nguyễn Thế Lịch, bác là Ngô Thì Nhậm, chú là Phan Huy Ôn, anh là Phan Huy Thực... Tiến sĩ Phan Huy Ích trong "Thứ nam thực sinh hỉ phú" (bài phú mừng sinh nhật con trai thứ hai Phan Huy Thực) đã viết: "Văn phái dư lan cự cửu nguyên”, nghĩa là: “dòng văn để lại đủ cửu nguyên”. Ông cũng có lời chú trong "Dụ am ngâm lục" rằng: "Phụ thân tôi Phan Huy Cận, thi Hương, thi Hội 2 lần đỗ đầu (lưỡng nguyên). Tôi thi Hương, thi Hội, thi Ứng chế ba lần đều đỗ đầu (tam nguyên). Bác Hy Doãn (Ngô Thì Nhậm) và chú Nhã Hiên (Phan Huy Ôn) em trai thứ 3 của tôi đều đỗ đầu thi Hương. Tất cả cộng lại được chín lần đỗ đầu, gọi là cửu nguyên”. Tác động của dòng dõi tài danh, hiếu học và những quan hệ trí tuệ đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, tính cách của nhà khoa học Phan Huy Chú.

Phan Huy Chú là một nhà bác học, danh nhân văn hoá Việt Nam, với tài danh lỗi lạc về bách khoa thư. Ông đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá trị, nổi bật nhất là bộ "Lịch triều hiến chương loại chí" gồm 49 quyển khảo cứu về lịch sử Việt Nam từ lập quốc đến cuối triều Lê. Trong bộ sách này, ông đã sưu tầm tư liệu, khảo cứu sách vở, đối chiếu sắp xếp, trình bày cô đọng, mạch lạc sinh động, có tầm khái quát cao, chia theo từng loại hiến chương gọi là chí: dư địa chí, nhân vật chí, lễ nghi chí, khoa mục chí, quốc dụng chí, hình luật chí, văn tịch chí, binh chế chí, quan chức chí, bang giao chí. (Trong đó: 1) Dư địa chí: Khảo cứu về đất đai, phong thổ và lịch sử địa lý Việt Nam qua các đời; 2) Nhân vật chí: Nói về tiểu sử từ vua chúa, tướng sĩ đến những người trung thần, tiết nghĩa có công với nước; 3) Quan chức chí: Xét về chế độ quan lại ở Việt Nam; 4) Lễ nghi chí: Khảo sát các quy định, thể chế, phẩm phục của vua chúa, quan lại cùng các nghi lễ trong triều đình; 5) Khoa mục chí: Nói về chế độ giáo dục, khoa cử đời xưa; 6) Quốc dụng chí: Viết về chế độ thuế khóa, tài chính qua các triều; 7) Hình luật chí: Xét về pháp luật các đời. 8) Binh chế chí: Khảo về quy chế tổ chức và việc luyện binh qua các đời; 9) Văn tịch chí: Nói về tình hình sách vở nước Việt xưa; 10) Bang giao chí: Khảo về việc giao thiệp, nghi lễ đón tiếp sứ thần các nước qua các đời). Ngoài tác phẩm lớn "Lịch triều hiến chương loại chí" ông còn có các tác phẩm khác như: "Hoàng Việt dư địa chí", Mai Phong du Tây thành dã lục, "Hoa thiều ngâm lục" (tập thơ đi sứ Tàu), "Bình Định quy trang", "Dương trình ký kiến", "Hoa trình ngâm lục", Lịch đại điển yếu thông luận; "Hải trình chí lược"... hay còn gọi là Dương trình kí kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia); Điều trần tứ sự tấu sở.

Phan Huy Chú là tấm gương lớn về hoạt động học thuật. Ông không được khoa bảng như cha ông, song thực học, thực tài, uyên bác, xuất chúng. Ông thực hiện công việc nghiên cứu bằng lao động khoa học miệt mài, với tâm huyết lớn. "Lịch triều hiến chương loại chí" là công trình học thuật cá nhân đồ sộ với hình thức độc đáo, nội dung lớn lao đã được ông thực hiện trong mười năm (1809 – 1819), chưa kể thời gian đọc sách, ghi chép, sưu tầm trước đó. Đây là "một bộ sách thường đọc của một đời" (Phan Huy Chú), là điểm đặc sắc trong lịch sử văn hoá nước nhà. Ông viết: "Nước Việt ta tiếng khen lễ nghĩa đã hơn nghìn năm, vốn có thư tịch đã từ lâu lắm. Kể từ Đinh, Lê dựng nước đối địch với Trung Hoa, mệnh lệnh từ chương dần dần rõ rệt. Đến Lý, Trần nội trị, văn vật mở mang, về tham định thì có những sách điển chương điều luật, về ngự, chế thì có các thể chiếu sắc thi ca. Trị bình đời nối, văn nhã đủ điều. Huống chi, nho sĩ đời nào cũng có, văn chương nảy nở như rừng, sách vở ngày càng nhiều, nếu không trải qua binh lửa mà thành tro tàn... Than ôi! Sách vở các đời đã từng tản mát, sách mất đã khó sưu tầm, sách còn lại nhiều sai lẫn, đằng đẵng ngàn năm, biết theo vào đâu mà khảo xét? Nhưng sự học ở các nhà nho quý ở tìm rộng, có sách vở để làm bằng. Tôi bèn xét tìm sử cũ, tham khảo các nhà..." (Trích quyển XLII Lịch triều hiến chương loại chí). Một thoáng như vậy để thấy tầm suy xét của Phan Huy Chú khi bắt tay vào thực hiện pho sách đồ sộ này.

Phan Huy Chú chuộng thực làm, thực học, không ưa danh hão. Ông đặt trọng tâm cuộc đời vào việc viết sách và dạy học. Với ông "văn minh của loài người đều chứa trong sách vở". Ông sinh ra trong thời loạn, Nguyễn Ánh chống nhau với nhà Tây Sơn (1778), sau 24 năm thì hợp cả nam bắc lại làm một mối. Triều Nguyễn trị tội những người đã từng cộng tác với triều Tây Sơn như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích bị nọc đánh ở trước Văn miếu. Phan Huy Chú hai lần đi thi nhưng chỉ đạt học vị tú tài, đến tuổi tứ tuần mới nhận chức quan, nhưng trôi dạt trong cảnh quan trường luôn thăng giáng, mờ tỏ. Ông bắt đầu làm quan Hàn lâm Biên tu từ năm 1821, khi vua Minh Mạng biết đến tài năng của ông và triệu vào Huế giữ chức này. Ông đã dâng bộ "Lịch triều hiến chương loại chí" lên vua Minh Mạng, được vua thưởng 30 lạng bạc, 1 áo sa đỏ, 30 cây bút và 30 thỏi mực. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) ông làm "Lang trung bộ Lại", năm Minh Mạng thứ 6 (1825) được sung vào sứ bộ sang Trung Quốc. Năm 1828 làm Thừa phủ Thừa Thiên. Năm 1829 làm Hiệp trấn Quảng Nam, sau đó bị giáng. Năm 1831 được cử làm Phó sứ sang Trung Quốc lần 2, khi về bị cách chức. Năm 1832 đi Biên lực ở Giang Lưu Ba (nay là nước Indonesia). Xong nhiệm vụ trở về ông được khôi phục giữ chức Tư vụ bộ Công... Vua Minh Mệnh là người chuộng tài năng nhưng có tính tự phụ và đa nghi. Ông dè dặt với tầng lớp nho sĩ Bắc Hà có quan hệ với triều Tây Sơn, trọng khí tiết và có chính kiến. Phan Huy Chú bởi ấp ủ tấm lòng ưu ái vì dân nước nên năm 1823, khi được thăng chức Lang trung bộ Lại, đã mạnh dạn dâng sớ điều trần bốn việc: bớt thuế, bớt lính; thực hiện chế độ quân điền; bãi bỏ những cuộc hành binh dẹp loạn; nghiêm trị bọn sâu mọt chuyên đục khoét lương dân. Việc dâng sớ điều trần bốn việc của Phan Huy Chú đã bị vua Minh Mệnh quở trách. Ông cũng như nhiều bậc tài trí thời ấy đã không được vua thực sự tin dùng. Từ sau mấy lần bị vua Minh Mệnh đối xử thô bạo, ông trở nên kín đáo, tuy không vội từ quan nhưng không còn hăm hở như buổi đầu. Hơn mười năm làm quan, ông dù có lúc được thăng Hiệp trấn Quảng Nam, hai lần đi sứ, nhưng ông vẫn luôn bị vua trách phạt. Cuối cùng, chán cuộc đời làm quan, Phan Huy Chú vịn cớ đau yếu, xin từ quan về nhà mở trường dạy học ở làng Thanh Mai thuộc huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) rồi mất tại đó năm Canh Tý 1840, thọ 58 tuổi.

Nhà thờ Phan Huy Chú hiện toạ lạc tại quê nhà Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Đây là di tích Lịch sử - Văn hoá đã được xếp hạng bởi Bộ Văn hoá - Thông tin ngày 24 tháng 11 năm 2000.


(Bài được post lần 1 tại http://blogtiengviet.net/DanhnhanViet/2006/11/14/phan_huy_chu; post lần 2 ngày 17.1.2008; đọc và chỉnh sửa lần 3 ngày 16/2/2008)

Nguồn: 1) Nguyễn Văn Chiến, 2006, Học vị, học vấn, học thuật Phan Huy Chú, Que Hương Website 26/10/2006 http://www.quehuong.org.vn/vi/; 2) Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng 2000, Nghị quyết số 06-2000/NQ-HĐ, khóa VI, ngày 19-7-2000 về đặt tên một số đường của TP Đà Nẵng trong đó có đường Phan Huy Chú (kèm lược sử; 3) Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Phan Huy Chú.

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2008

Nguyễn Bỉnh Khiêm



Hoàng Kim
(Tuyển chọn, biên soạn)

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê -Mạc.

TIỂU SỬ
Nguyễn Bỉnh Khiêm, sinh năm Tân Hợi (1491) đời vua Lê Thánh Tông, năm Hồng Ðức thứ 21, quê gốc ở huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Ông sinh cùng thời với Nostradamus (1503-1566) là nhà tiên tri đại tài của phương Tây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định, thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo.Ông khôi ngô tuấn tú và có tư chất thông minh khác thường, một tuổi đã nói sõi, năm tuổi đã thuộc nhiều thơ văn chữ Nôm truyền miệng và kinh sách được mẹ dạy cho. Năm 1497, vua Lê Thánh Tông mất, truyền ngôi cho Lê Hiếu Tông. Khi đó mới bảy tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải sống với cha vì mẹ đã bỏ nhà đi do bất đồng trong dạy con.

Lớn lên, ông theo học người thầy nổi tiếng tinh thông Lý học là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Ông có nhân cách và tài năng lỗi lạc nên đã được thầy giảng dạy Bát quái đồ, Kinh Dịch, Lý học và trao truyền cho bộ sách Thái Ất Thần Kinh.

Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm vào tuổi trưởng thành thì nhà Lê cũng bắt đầu giai đoạn cực kỳ suy yếu dưới thời vua Lê Uy Mục (1505-1509) " vua nghiện rượu, hay giết người, hoang dâm, thích ra oai, giết hại người tôn thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại chuyên quyền, trăm họ oán giận, người đời gọi là vua Quỷ". Tiếp đó là triều vua Lê Tương Dực (1510- 1516) "mặt thì đẹp mà người lệch,tính thích dâm, là vua Lợn" "ham chơi mà không quyết đoán, việc thổ mộc bừa bãi, nhân dân thất nghiệp, trộm cướp nổi dậy" (Đại Việt sử ký toàn thư). Năm 1508, Mạc Đăng Dung vốn là chàng đánh cá khoẻ ở làng Cổ Trai thuộc vùng Đồ Sơn đã thi trúng võ cử được lên chức Đô chỉ huy sứ. Năm 1526, ông được phong tước Thái Sư và đã hiếp vua phải nhường ngôi để lập ra nhà Mạc. Trong nước biến loạn, nhà Mạc tuy thay thế nhà Lê nhưng chưa được lòng dân. Cựu thần nhà Lê là Lê Ý, Nguyễn Kim dựng cờ “Lê Trung hưng” ở Thanh Hoá. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ở ẩn suốt hai mươi năm, cùng hai người bạn thân là Bùi Doãn Đốc và Nguyễn Thừa Hưu (tam hữu: Tùng, Mai, Trúc) không ra dự thi tiến sĩ.

Lúc Nguyễn Bỉnh Khiêm 45 tuổi, thời Mạc Đăng Doanh lên nối ngôi năm Đại Chính thứ sáu (1535), thì ông mới ra thi và đã đỗ Trạng nguyên. Hai bạn thân của ông đã đỗ Bảng nhãn và Thám hoa. Vua Mạc cất ông lên làm Ðông các Hiệu thư rồi được thăng tới chức Lại Bộ Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan Tam phẩm triều Mạc 8 năm. Sau khi vua giỏi Mạc Đăng Doanh đột ngột từ trần (1540), nhà Mạc không có vua sáng nối nghiệp. Ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần dưới triều vua Mạc Phúc Hải nhưng không được vua nghe. Năm 1542, ông đã xin cáo quan ở tuổi 53.

Sau khi về trí sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mở trường dạy học, dựng am Bạch Vân, quán Trung Tân cạnh sông Hàn Giang, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ và học trò gọi ông là "Tuyết Giang Phu tử". Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như: Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà ngoại giao lỗi lạc; Nguyễn Dữ, tác giả "Truyền kỳ mạn lục"; Lương Hữu Khánh, Lễ bộ Thượng thư của triều Lê Trung hưng; Giáp Hải, Trạng nguyên của triều Mạc; Nguyễn Quyện, danh tướng của triều Mạc; Trương Thời Cử, Trương Thời Trung, Nguyễn Mãn, Đinh Bá Lộc, Nguyễn Văn Chính ... đều là những nhân tài kiệt xuất một thời. Ngay cả khi đã lui về dạy học, cụ vẫn được các vua Mạc đến vời ra giúp hoặc hỏi về mưu lược. Mặc dù Nguyễn Bỉnh Khiêm tôn phù nhà Mạc nhưng chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều kính phục và vấn kế.

Nguyễn Bỉnh Khiêm được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời "Sấm ký" là những lời tiên tri mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình”. Tương truyền, khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ là tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong". Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể" (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà văn hoá lớn, nhà thơ triết lý, nhà hiền triết thông kim bác cổ, tài danh lỗi lạc "tác giả lớn của văn học thế kỷ XVI và của cả giai đoạn văn học thế kỷ XVI, XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII" (Từ điển Văn học Việt Nam). Ông đã để lại tập thơ chữ Nôm "Bạch Vân Quốc ngữ thi tập" "có cả ngàn bài" theo lời "Bài tựa" của chính ông, và nhiều bài thơ chữ Hán. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cập đến nhiều vấn đề hiện thực xã hội, là tiếng nói về đạo lý ở đời. Vũ Khâm Lân đã khen "văn chương của tiên sinh thường bộc lộ cái tấc dạ ưu thời mẫn thế, không cần điêu luyện mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà ý vị, câu câu đều có ngụ ý răn đời" "ý nghĩa thanh cao mà siêu thoát", Phan Huy Chú thì cho rằng đọc qua thơ ông, dù nghìn năm sau còn tưởng như trăng trong, gió mát".

Cụ từ trần ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Vua Mạc Mậu Hợp truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm là Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công, nên nhân dân quen gọi là Trạng Trình.

Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: "Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở". La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài "Huyền cơ tham tạo hóa" (nắm được huyền vi của tạo hóa). Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng Trình “ như núi Thái sơn, sao Bắc Ðẩu / nghìn năm sau như vẫn một ngày/. Đạo Cao Đài đã suy tôn ông là một trong ba vị Thánh cùng với Tôn Trung Sơn và Victor Hugo.

TÁC PHẨM CHỌN LỌC

NHÀN (Thơ Nôm, bài 73)

Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

CHÍN MƯƠI (Thơ Nôm, bài 29)

Tóc đã thưa, răng đã mòn,
Việc nhà đã phó mặc dâu con.
Bàn cờ, cuộc rươu, vầy hoa cúc
Bó củi, cần câu, trốn nước non.
Nhàn được thú vui hay nấn ná,
Bữa nhiều muối bể chứa tươi ngon
Chín mươi thì kể xuân đà muộn
Xuân ấy qua thì xuân khác còn.

DƯỠNG SINH THI

Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần
Thiểu tư, qủa dục, vật lao thân.
Thực thôi ban bảo, vô kiêm vị,
Tửu chỉ tam phân, mạc quá tần
Mỗi bả hý ngôn, đa thủ tiếu,
Thường hàm, lạc ý, mạc sinh xân
Nhiệt viêm, biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao qúa bách xuân

Tạm dịch:

Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít lao thân.
Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị,
Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng.
Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi,
Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng.
Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi,
Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm.

(GS. Lê Trí Viễn dịch)

Tài liệu tham khảo: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. Nguyễn Bỉnh Khiêm; Bạch Vân Trình Quốc Công Lục ký VNB3;Minh Giang 2006. Bạch vân cư sĩ- Nhà Xuất bản Thanh Niên, Hà Nội 351 trang; Đinh Gia Khánh (chủ biên) 1983. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội.Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên) và ctv. 2006. Ngữ văn lớp 10, tập 1, Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội,trang 128-129; TS. Nguyễn Hữu Sơn, 2003. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý thế sự. Nhà xuất bản Trẻ, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh 160 trang; Trình Tiên sinh Bạch Vân quốc ngữ thi tập AB 444; Trình Quốc Công Sấm ký AB 345, Phạm Đan Quế 2000, Giai thoại và sấm ký Trạng Trình. Nhà Xuất bản Văn học.

CẢM NHẬN

Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân
Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
Sáng giữa đời, lấp lánh một niềm tin!

(trích...)

THƠ HOÀNG KIM, Thắp đèn lên đi em!

Tags: | Nguyen_Binh_Khiem (Những chữ in màu xanh lá cây là có chú giải))
Post 1: 09.10.2006 http://blogtiengviet.net/ DAYVAHOC
Post 2: 16.6.2007 http://blog.360.yahoo.com/hoangkim_vietnam
Post 3:: 4.1.2008 http://blog.360.yahoo.com/hoangkim_vietnam
(Ảnh tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm: theo Lê Văn Hảo chimviet.free.fr/.../nguyenbinhkhiem.jpg)

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2008

Chu Văn An



Hoàng Kim
(Tuyển chọn, biên soạn)

Chu Văn An (1292 -1370) là nhà giáo, nhà văn hoá, nhà thơ văn lớn ở đời Trần. Ông là người thuần nhã, hiền hoà, chính trực, kiên định, được tôn vinh là người Thầy đứng đầu các nhà giáo Việt Nam từ xưa đến nay.

TIỂU SỬ

Chu Văn An tên thật là Chu An, tên thụy là Văn Trinh, tên hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt. Ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) đời vua Trần Nhân Tông, tại làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội.

Ông thi đỗ Thái học sinh (tức tiến sĩ) nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở quê nhà. Ông nổi tiếng chính trực, tính tình nghiêm nghị, học vấn sâu rộng, tư cách thanh cao, sửa mình trong sạch, giữ gìn tiết tháo, không cầu danh lợi, danh tiếng lan xa, học trò theo học rất đông. Trong số đó có nhiều người thành đạt, làm quan to trong triều như Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh, Trạng nguyên Lê Quát, ...

Chu Văn An được vua Trần Minh Tông (1314 -1329) vời ra làm đại quan Tư nghiệp Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Ông đã cùng Mạc Đỉnh Chi, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào việc củng cố triều Trần lúc đó đã bắt đầu đi vào suy thoái. Trần Minh Tông làm vua đến năm 1329 thì lui về làm Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho thái tử Vượng mới 10 tuổi lên làm vua, tức là vua Trần Hiến Tông. Hiến Tông làm vua được 13 năm thì mất không có con nối dõi. Trần Minh Tông lập em trai tên là Hạo lên làm vua, tức là vua Trần Dụ Tông (1341-1369). Vua Minh Tông mất, triều thần những người giỏi cũng lần lượt mất cả, việc chính trị bỏ trể nải. Kẻ gian thần đắc chí làm nhiều điều vô đạo. Chu Văn An đã nhiều lần can ngăn Dụ Tông nhưng không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần nhưng vua không nghe. Ông đã từ quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, lấy hiệu là Tiều Ẩn. Ông mất tại đó năm Canh Tuất (1370), hưởng thọ 79 tuổi.

Theo Phan Huy Chú thì Chu Văn An đã để lại cho đời các tác phẩm Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều Ẩn thi tập bằng chữ Hán và bộ sách Tứ Thư thuyết ước (chú giải Tứ Thư). Phan Huy Chú nhận xét thơ ông “lời thơ trong sáng, u nhàn”. Đào Trung Kiên đã giới thiệu sáu tuyệt phẩm của ông trên “Thi Viện”. Theo Đặng Kim Ngọc (1959) thì Chu Văn An còn là một thầy thuốc Đông y, ông đã soạn quyển Y học yếu giản tập chú di biên.

Khi ông mất, vua Trần đã đặt cho ông tên thụy là Văn Trinh, truy tặng tước Công (tước lớn nhất trong năm tước mà người ngoài hoàng tộc có thể được phong), ban hiệu là Khang Tiết tiên sinh và được đem vào thờ trong Văn Miếu.



Sự nghiệp của ông được ghi lại trong câu đối thờ ở Văn Miếu: “Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc/ Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong”. (Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi há chẳng phải là cái thú vui của bậc hiền giả? Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi mãi ngưỡng mộ phong thái của kẻ triết nhân).

Ngô Thế Vinh trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã giải thích: “Văn, đức chi biểu dã. Trinh, đức chi chính cố dã” (Văn là cái vẻ đẹp bên ngoài của đức. Trinh là sự bền vững bên trong của đức).Văn Trinh nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức “bên ngoài thuần nhã, hiền hoà với bên trong chính trực, kiên định”.

Phan Huy Chú đã ca ngợi ông: “Học nghiệp thuần túy, tiết tháo cương thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được.”

TÁC PHẨM CHỌN LỌC

Linh sơn tạp hứng

Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình
Tà dương đảo quải bán khê minh
Thúy la kính lý vô nhân đáo
Sơn thước đề yên thời nhất thanh

Vịnh cảnh núi Chí Linh

Núi non trùng điệp như che
Tà dương hắt ánh bờ khe sáng ngời
Đường quanh cỏ biếc vắng người
Tiếng chim khách núi đôi hồi kêu mây

(Nguyễn Tấn Hưng dịch)
Nguồn:Đào Trung Kiên, 2006. Thi Viện trực tuyến

Miết trì

Thủy nguyệt kiều biên lộng tịch huy
Hà hoa hà diệp tịch tương y.
Ngư du cổ chiểu long hà tại
Vân mãn không sơn hạc bất quy
Lão quế tùy phong hương thạch lộ
Nộn đài trước thủy một tùng phi
Thốn tâm thù vị như hôi thổ
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy

Ao rùa

Bên cầu trăng nước tịch dương
Lá hoa sen lặng tựa nương giữa hồ.
Rồng đâu? Ao cũ cá đùa
Mây đầy núi vắng hạc chưa trở về
Quế thơm đường đá gồ ghề
Nước đầm rêu biếc như che cổng tùng
Phải đâu tro đất lạnh lùng
Nhắc đời vua trước lệ lòng thầm rơi.

(Nguyễn Tấn Hưng dịch)
Nguồn:Đào Trung Kiên, 2006. Thi Viện trực tuyến

Xuân đán

Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn
Bích mê thảo sắc thiên như túy
Hồng thấp hoa sao lộ vị can
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan
Bách huân bán lãnh trà yên yết
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.

Xuân sớm

Nhà trên núi vắng, thảnh thơi,
Cửa phên, nghiên chắn , làn hơi lạnh về
Trời xanh, cỏ biếc, lê thê
Đầu cành hoa đỏ, đầm đìa hạt sương
Thân cùng mây trắng vấn vương
Lòng như giếng cổ chẳng thường gợn tăm
Hương tàn, trà nguội, mấy tuần
Chim khe, lãnh lót, kêu xuân, mộng tàn.

(Nguyễn Tấn Hưng dịch)
Nguồn:Đào Trung Kiên, 2006. Thi Viện trực tuyến

Giang đình tác

Giang đình độc lập sổ quy châu
Phong cấp than tiền nhất địch thu
Tà nhật ngâm tàn hồng đạm đạm
Mộ thiên vọng đoạn bích du du
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng
Hồ hải lưu vi hãn mạn du
Tự khứ, tự lai hồn bất quản
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.

Cảm tác ở đình bên sông

Đếm thuyền về lại bến bên sông
Gió lộng vào bờ tiêng sáo trong
Ngày xế mỏi ca hồng nhạt nhạt
Trời chiều vời vợi xanh mênh mông
Công danh quá khứ như là mộng
Hồ hải chu du một tang bồng
Tự tại đi về không bó buộc
Nhìn âu tung cánh lướt trời không.

(Người dịch: Sieng@viethoc.org

Nguồn:
1) Nguyễn Duy Chính. Chu Văn An (1292 – 1370) con người và thời đại.
2)Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí
3) Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên soạn thảo (1272-1697) Đại Việt sử ký toàn thư, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam dịch ( 1985-1992) Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội (Hà NộI) ấn hành 1993.
4) Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên) và ctv. 2006. Ngữ văn lớp 10, tập 1, Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội, trang 172-173.
5)Đào Trung Kiên, 2006. Thi Viện trực tuyến
6)Trần Trọng Kim 1999. Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản văn hoá thông tin, trang 176.
7)Đặng Kim Ngọc, 1959. Văn hoá Việt Nam, Nhà Xuất bản Văn hoá Văn nghệ Trung ương Hà Nội (Trích dẫn bởi Phan Trọng Luận và ctv. 2006).
8)Nguyễn Thị Châu Quỳnh. Đạo Nho - Văn Miếu http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/thihuong/...
9)Wikipedia tiếng Việt. Chu Văn An

CẢM NHẬN

Rằm xuân Tây Hồ

Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
Đất trời lồng lộng một màu trăng.
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm

Thơ Hoàng Kim
THƠ CHO CON http://www.blogger.com/post-edit.g?blogID=6386160990305421427&postID=1249099318807842989

Nguồn:
Post lầ 1 trên DAYVAHOC http://dayvahoc.blogtiengviet.net 10/2006
Post lần 2 trên DAYVAHOC's Blog http://blog.360.yahoo.com/hoangkim_vietnam
http://blog.360.yahoo.com/blog-PkY01PA5dKccD9Dsho_NMlMcLZ4VHCMw?tag=chu_van_an 6/2007
Post lần 3 trên http://dayvahoc.blogspot.com